CÁC LỰC LƯỢNG BẢO VỆ AN NINH TRẬT TỰ Ở CƠ SỞ - Kỳ 2: Lực lượng Dân phòng
Xác định được vị trí, tầm quan trọng của Nhân dân trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, đặc biệt là trong giai đoạn đất nước t...
Xác định được vị trí, tầm
quan trọng của Nhân dân trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, đặc
biệt là trong giai đoạn
đất nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương quan trọng
về huy động sức mạnh của Nhân dân trong công tác bảo vệ an ninh trật tự, bảo vệ
tính mạng, tài sản của Nhà nước và Nhân dân. Trong đó, lực lượng dân phòng cũng
được xác định là một trong những lực lượng quan trọng trong phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định việc
quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng cháy và chữa cháy. Trong Pháp lệnh đã
có những nội dung quy định về lực lượng phòng cháy và chữa cháy. Tiếp đó, trong
thư khen gửi Đội Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy Sở Công an Hà Nội ngày
03/8/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Phải thường xuyên hướng dẫn và bồi
dưỡng về nghiệp vụ cho lực lượng dân phòng ngày càng tiến bộ, để họ trở thành
người giúp việc thật đắc lực cho các đồng chí". Đây là dấu mốc quan trọng
đánh dấu sự ra đời của lực lượng dân phòng.
Chỉ thị số 35-CT ngày 14/5/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường
công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng yêu cầu các cấp, các ngành thực hiện tốt các chủ trương, biện pháp
phát động quần chúng, xây dựng phong trào toàn dân giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội, toàn dân tham gia phòng ngừa và đấu tranh với các loại tội phạm, tệ nạn xã
hội: Để tạo điều kiện cho phong trào ở cơ sở, cần thành lập "Hội đồng bảo
vệ trật tự an toàn xã hội" ở phường, xã do Mặt trận Tổ quốc chủ trì và
chính quyền địa phương chỉ đạo, củng cố các đội dân phòng. Công an phải hỗ trợ
và có trách nhiệm bảo vệ quần chúng trong các hoạt động phòng ngừa, đấu tranh
chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Cho phép lập "quỹ bảo trợ an ninh
trật tự" do sự tham gia đóng góp của nhân dân, các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn
phường, xã. Chỉ thị số 35-CT nêu trên chưa quy định cụ thể về tổ chức,
hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn và chế độ, chính sách cho đội dân phòng. Căn cứ
vào Chỉ thị số 35-CT nêu trên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương đã ban hành các quyết định quy định về tổ chức và hoạt động của
đội dân phòng ở xã, phường, thị trấn, trong đó quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức và hoạt động của đội dân phòng.
Ngày 19/4/1996, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 237/TTg về việc tăng cường
các biện pháp thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy; trong đó, giao nhiệm vụ
cụ thể cho Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và
các đơn vị có liên quan biên soạn Điều lệ hoạt động của các đội dân phòng và
Nghị định xử phạt các hành vi vi phạm quy định an toàn phòng cháy chữa cháy để
trình Chính phủ…
Để cụ thể
hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoạt động của lực lượng phòng cháy, chữa
cháy quần chúng, trong đó có lực lượng dân phòng, ngày 21/4/1998, Bộ trưởng Bộ
Nội vụ (nay là Bộ Công an) ban hành Quyết định số 230/1998/QĐ-BNV(C11) về việc
ban hành quy định chế độ huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy đối với lực
lượng phòng cháy, chữa cháy quần chúng: Huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy, chữa
cháy (PCCC) nhằm bồi dưỡng và nâng cao kiến thức PCCC cho lực lượng PCCC của quần
chúng gồm những người dân làm công tác PCCC ở các khu dân cư (dân phòng) và những
người làm việc trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế. Trong đó, đội viên dân phòng là một trong
những đối tượng được huấn luyện, kiểm tra, cấp giấy chứng nhận kết quả huấn
luyện về công tác phòng cháy, chữa cháy; Quyết định này cũng quy định về trách
nhiệm, quyền lợi của đội viên dân phòng khi tham dự lớp huấn luyện nghiệp vụ
phòng cháy, chữa cháy.
Ngày 29/6/2001, Quốc hội đã ban hành
Luật Phòng cháy và chữa cháy. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có tính pháp lý
cao nhất quy định về đội dân phòng. Theo đó, Đội dân phòng là tổ chức gồm những
người tham gia hoạt động phòng cháy và chữa cháy, giữ gìn an ninh, trật tự ở
nơi cư trú. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất quy
định về Đội dân phòng. Theo đó, Đội dân phòng thực hiện 2 chức năng là tham gia
phòng cháy và chữa cháy ở nơi cư trú và tham gia giữ gìn an ninh trật tự ở nơi
cư trú. Tuy nhiên, tại các văn bản quy phạm pháp luật về phòng cháy và chữa
cháy chỉ quy định về các hoạt động, chế độ, chính sách, đào tạo, huấn luyện,
bồi dưỡng... lực lượng dân phòng liên quan đến công tác phòng cháy và chữa cháy
ở nơi cư trú; còn các quy định về chức năng của lực lượng dân phòng trong công
tác bảo đảm an ninh, trật tự ở nơi cư trú chủ yếu được quy định tại các văn bản
quy phạm pháp luật của các địa phương, cụ thể là quyết định của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Qua nghiên cứu quyết định về
lực lượng dân phòng của một số tỉnh, thành phố như thành phố Hồ Chí Minh, Long
An, Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Tiền Giang… lực lượng dân phòng các địa phương
chủ yếu có chức năng tham gia thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy, cứu
nạn, cứu hộ; phòng ngừa, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh và tham gia
thực hiện một số biện pháp phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật giữ gìn an
ninh, trật tự ở ấp, khu phố, xã, phường, thị trấn. Đội dân phòng có nhiệm vụ
thực hiện các biện pháp giữ gìn an ninh, trật tự, phòng cháy, chữa cháy, cứu
nạn cứu hộ, phòng ngừa, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh và các tai nạn
khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của ngành Công an; tổ chức tuần
tra, canh gác giữ gìn an ninh, trật tự để phòng ngừa, phát hiện đấu tranh
phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội trên địa bàn, các khu
vực dân cư theo chương trình, kế hoạch được duyệt của Trưởng Công an cấp xã và
theo hướng dẫn của Cảnh sát khu vực, Công an viên…
Luật Phòng cháy và chữa cháy năm
2001 cũng quy định lực lượng dân phòng là một trong những lực lượng nòng cốt
trong hoạt động phòng cháy và chữa cháy toàn dân; quy định về thành lập, quản
lý, chỉ đạo đội dân phòng tại thôn, ấp, bản, tổ dân phố và tại cơ sở; nhiệm vụ
của lực lượng dân phòng; huấn luyện, bồi dưỡng, chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn
nghiệp vụ, điều động và chế độ, chính sách đối với lực lượng dân phòng. Theo
đó, tại thôn, ấp, bản, tổ dân phố phải thành lập đội dân phòng. Đội dân phòng
do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã thành lập, quản lý và chỉ đạo. Lực lượng dân
phòng và lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở được huấn luyện, bồi dưỡng
nghiệp vụ; chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ
quan Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy; chịu sự điều động của cấp có thẩm quyền
để tham gia hoạt động phòng cháy và chữa cháy. Lực lượng dân phòng được hưởng
chế độ, chính sách trong thời gian huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ và khi trực
tiếp tham gia chữa cháy theo quy định của Chính phủ.
Sau hơn 10 năm triển
khai thi hành, Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001 đã đi vào đời sống xã hội,
tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong công tác phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đạt được, Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001 đã bộc lộ một số vướng mắc, bất
cập: hoạt động phòng cháy, chữa cháy của lực lượng dân phòng chưa đạt hiệu quả
cao như yêu cầu đặt ra. Nguyên nhân một phần do Luật Phòng cháy và chữa cháy
năm 2001 còn thiếu những quy định cụ thể về kinh phí đầu tư, trang bị phương
tiện phòng cháy, chữa cháy cũng như chế độ, chính sách phù hợp cho lực lượng
này.
Để khắc phục những hạn
chế, bất cập nêu trên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và
chữa cháy năm 2013 được ban hành, nhằm hoàn thiện, nâng cao hơn nữa cơ sở pháp
lý và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh trật tự nói chung và
phòng cháy, chữa cháy nói riêng trong tình hình mới, góp phần giữ vững an ninh
quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Sau khi Quốc hội
ban hành Luật, Chính phủ, Bộ Công an, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lực lượng dân phòng như:
- Nghị định số 136/2020/NĐ-CP
ngày 24 /11/2020 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng
cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và
chữa cháy;
- Nghị định số 83/2017/NĐ-CP
ngày 18/7/2017 quy định công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng phòng cháy và chữa
cháy;
- Thông tư số 48/2015/TT-BCA ngày 06/10/2015 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về trang phục chữa cháy của lực lượng dân phòng,
lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở, lực lượng phòng cháy và chữa cháy
chuyên ngành;
- Thông tư số 08/2018/TT-BCA
ngày 05/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Công an quy
định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 83/2017/NĐ-CP ngày
18/7/2017 quy định công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng phòng cháy và chữa
cháy;
- Thông tư số 150/2020/TT-BCA ngày
31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định
về trang
bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho lực lượng dân
phòng, lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở, lực lượng phòng cháy và chữa
cháy chuyên ngành;
- Thông tư số 149/2020/TT-BCA ngày
31/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 136/2020/NĐ-CP ngày 24/11/2020 quy định chi
tiết thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng cháy và chữa cháy và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy.
Các văn bản quy phạm pháp luật nêu
trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức, hoạt động của lực lượng
dân phòng đi vào nề nếp, hoạt động hiệu quả. Đây là những văn
bản pháp lý cao nhất thể hiện tính kế thừa, tính thực tiễn dựa trên cơ sở yêu cầu
phát triển của đất nước với những nguyên tắc mang tính khoa học, tính quần
chúng cao, thể hiện vai trò quan trọng của lực lượng dân phòng trong công tác bảo
đảm an ninh trật tự ở cơ sỏ. Như vậy, qua các thời kỳ phát triển của đất nước, lực
lượng dân phòng ngày càng được củng cố, phát triển, đáp ứng yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ được giao./.