CÁC LỰC LƯỢNG BẢO VỆ AN NINH TRẬT TỰ Ở CƠ SỞ - Kỳ 1: Lực lượng bảo vệ dân phố
Bảo vệ dân phố là lực lượng quần chúng tự nguyện làm nòng cốt trong phong trào bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, được thàn...
Bảo vệ dân phố là lực lượng quần
chúng tự nguyện làm nòng cốt trong phong trào bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội, được thành lập ở các phường, thị trấn (sau đây gọi chung là phường)
nơi bố trí lực lượng Công an chính quy, do Ủy ban nhân dân phường quyết định
thành lập.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức của cấp ủy, chính quyền các cấp, lực lượng bảo vệ dân phố đã từng bước
được xây dựng, củng cố ngày càng lớn mạnh, có nhiều đóng góp vào nhiệm vụ bảo vệ
an ninh, trật tự ở cơ sở, là một trong những tổ chức quần chúng nòng cốt trong
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Có thể khái quát quá trình hình
thành và phát triển của lực lượng bảo vệ dân phố qua những giai đoạn sau:
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Bộ Công
an đã ban hành Chỉ thị số 680/TA-HK chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương
trong toàn quốc chuẩn bị tiến hành công tác điều tra đăng ký hộ khẩu, trong đó có
bước chuẩn bị bầu Tổ trưởng nhân dân và Ban bảo vệ dân phố. Đây là căn cứ quan
trọng đánh dấu sự ra đời của lực lượng bảo vệ dân phố toàn quốc nhằm đẩy mạnh
công tác trị an ở khu vực địa bàn thành phố, thị xã và củng cố chính quyền ở cơ
sở.
Ngày 23/7/1963, Bộ Công an ban
hành Quy định số 143/VP quy định tạm thời về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức hoạt động của bảo vệ dân phố. Ở giai đoạn này, Ban bảo vệ dân phố là một
tổ chức do đại diện các hộ trong khối nhân dân trực tiếp bầu ra, theo nguyên tắc
dân chủ, bỏ phiếu kín. Ban bảo vệ dân phố có từ 03 đến 07 người; trong đó có 01
Trưởng ban và 01 hoặc 02 Phó ban, còn những người khác là ủy viên của ban với
nhiệm kỳ hoạt động là 02 năm. Ban bảo vệ dân phố có nhiệm vụ vận động, tổ chức,
hướng dẫn nhân dân tiến hành công tác bảo vệ trị an, dưới dự hướng dẫn trực tiếp
của Công an khu phố, thị xã: Tổ chức, vận động nhân dân nâng cao tinh thần cảnh
giác, tham gia phong trào Bảo vệ trị an, đấu tranh chống các bọn gián điệp và
các bọn phản cách mạng khác, chống những luận điệu phao đồn tin nhảm, xuyên tạc
các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; chống bọn tội phạm hình sự; vận
động, tổ chức nhân dân tham gia công tác giáo dục, cải tạo những người trước
kia tham gia tổ chức phản động cũ chưa chịu cải tạo; giáo dục giám sát những
người bị quản chế; tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân chấp hành đầy đủ những luật
lệ và quy tắc trật tự trị an của thành phố, thị xã; bảo vệ dấu vết nơi xảy ra
tai nạn xe cộ, án mạng… và báo cáo ngay cho Công an khu phố, thị xã. Thường
xuyên và kịp thời phản ánh tình hình trật tự trị an và ý kiến, nguyện vọng của
nhân dân cho cơ quan khu phố, thị trấn; hướng dẫn các Tổ trưởng, Tổ phó nhân
dân làm công tác giữ gìn trật tự trị an khu phố…
Bên cạnh những kết quả công tác đã
đạt được, các Ban bảo vệ dân phố chưa thực sự được quan tâm, hướng dẫn, chỉ đạo,
dẫn đến hiệu quả hoạt động còn chưa cao. Nhằm khắc phục tình trạng trên, ngày
16/8/1995, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã có Quyết định số 521/QĐ-BNV ban
hành bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban bảo vệ
dân phố thay thế Quy định số 143/VP. Đồng thời, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an)
cũng ban hành Chỉ thị số 08/BNV-C11 ngày 16/8/1995 về triển khai thực hiện quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban bảo vệ dân phố. Ở
giai đoạn này, Ban bảo vệ dân phố là tổ chức quần chúng được thành lập ở các
khu vực dân cư phường, thị trấn; là tổ chức nòng cốt trong phong trào bảo vệ an
ninh Tổ quốc để tổ chức vận động nhân dân trong khu vực thực hiện nghĩa vụ giữ
gìn an ninh, trật tự. Nhiệm kỳ hoạt động là 02 năm; cơ cấu tổ chức của Ban bảo
vệ dân phố có 01 Trưởng ban và 01 Phó Trưởng ban. Ban bảo vệ dân phố do đại diện
các hộ gia đình trong khu vực bầu ra, được chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, thị
trấn ra quyết định công nhận. Trưởng ban, Phó Trưởng ban, các ủy viên, cán bộ bảo
vệ dân phố được cấp Giấy chứng nhận theo mẫu thống nhất của Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Công an). Thực hiện Quyết định số 521/QĐ-BNV, lực lượng bảo vệ dân phố trong cả
nước không ngừng được xây dựng, củng cố và ngày càng lớn mạnh.
Về nhiệm vụ của bảo vệ dân phố, đã
có một số nội dung thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế và những văn bản
quy phạm pháp luật khác như: Phối hợp với lực lượng bảo vệ các cơ quan, xí nghiệp
đóng trên địa bàn để cùng bảo vệ an ninh, trật tự tại khu vực. Tổ chức và vận động
nhân dân tham gia cảm hóa, giúp đỡ những người đang trong diện cải tạo không
giam giữ, quản chế, tù được hưởng án treo, tù tha về đang trong thời gian thử
thách, đối tượng giáo dục tại phường, thị trấn ở khu vực chấp hành theo quy định
của pháp luật; phát hiện, tuy bắt các đối tượng có lệnh truy nã, trốn thi hành
án; vận động thuyết phục đối tượng phạm tội đang lẩn trốn ra tự thú; phối hợp với
gia đình, nhà trường, đoàn thể có biện pháp quản lý, giáo dục trẻ em phạm pháp…
Để tiếp tục củng
cố, kiện toàn lực lượng bảo vệ dân phố, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giữ gìn an
ninh, trật tự ở địa bàn đô thị trong tình hình mới, ngày 17/4/2006 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 38/2006/NĐ-CP về bảo vệ dân phố. Đây là văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức,
hoạt động và chế độ chính sách đối với bảo vệ dân phố. Bộ Công an, Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số
02/2007/TTLT-BCA-BLĐTBXH-BTC ngày 01/3/2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định số
38/2006/NĐ-CP ngày 17/4/2006 về bảo vệ dân phố. Nghị định số 38/2006/NĐ-CP đã
khẳng định: bảo vệ dân phố là lực lượng quần chúng tự nguyện làm nòng cốt
trong phong trào bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, được thành
lập ở các phường, thị trấn (sau đây gọi chung là phường) nơi bố trí lực lượng
Công an chính quy, do Ủy ban nhân dân phường quyết định thành lập; thực hiện
một số biện pháp công tác phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và
các hành vi vi phạm pháp luật khác theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ
Đảng, chính quyền, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân trên địa bàn. Nghị định số
38/2006/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 02/2007/TTLT-BCA-BLĐTBXH-BTC nêu trên cũng
quy định cụ thể về nhiệm vụ của bảo vệ dân phố trong công tác nằm tình hình an
ninh trật tự, phát hiện các vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân
dân, các vụ vi phạm hành chính, vi phạm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
phường; phản ánh cho cơ quan Công an và Ủy ban nhân dân phường, có biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn; tham gia hoà giải, giải quyết kịp thời không để những
hậu quả xấu xảy ra; phổ biến, tuyên truyền nâng cao cảnh giác, ý thức phòng
ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành
vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự nhằm vận động nhân dân trong phường tự
giác chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các
quy tắc, quy ước, nội quy về bảo vệ an ninh, trật tự; tham gia xây dựng phường,
cụm dân cư, hộ gia đình an toàn về an ninh, trật tự, không có tội phạm, tệ nạn
xã hội; công tác phối hợp với các lực lượng khác trong phòng ngừa, phát hiện, đấu
tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi phạm khác về trật tự, an toàn xã
hội theo quy định của pháp luật… Mỗi cụm dân cư được thành lập một tổ bảo vệ
dân phố. Tổ trưởng và các tổ viên tổ bảo vệ dân phố do đại diện các hộ gia đình
trong cụm dân cư bầu ra. Tuỳ vào tình hình đặc điểm và số lượng dân cư trên địa
bàn, mỗi tổ bảo vệ dân phố có từ 3 đến 7 tổ viên. Mỗi phường được thành lập một
Ban bảo vệ dân phố. Ban bảo vệ dân phố gồm Trưởng ban, các Phó trưởng ban và
các Ủy viên. Ủy viên Ban bảo vệ dân phố là tổ trưởng các tổ bảo vệ dân phố ở
các cụm dân cư. Trưởng ban, các Phó Trưởng Ban bảo vệ dân phố do tập thể Ủy
viên Ban bảo vệ dân phố bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Trưởng Công an
phường có trách nhiệm tổ chức việc bầu Trưởng ban, Phó Trưởng ban, tổ trưởng và
các tổ viên bảo vệ dân phố và đề nghị Ủy ban nhân dân phường quyết định công
nhận các chức danh trên. Nhiệm kỳ hoạt động của Ban bảo vệ dân phố là 5 năm. Đồng thời, các văn bản này
cũng quy định cụ thể chế độ chính sách đối với bảo vệ dân phố: bảo vệ dân phố
được hưởng phụ cấp hàng tháng do Ủy ban nhân dân phường chi trả; việc bồi dưỡng
kiến thức pháp luật và nghiệp vụ về công tác bảo vệ an ninh, trật tự và chế độ
chính sách cho bảo vệ dân phố trong khi làm nhiệm vụ mà bị hy sinh, bị thương;
việc trang bị phương tiện cho bảo vệ dân phố.
Ngày 18/12/2016, Bộ Công an tổ chức
Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm (2006 - 2016) công tác Công an thực hiện Nghị
định số 38/2006/NĐ-CP và triển khai thực hiện Chỉ thị số 08/CT-BCA-V28 ngày
01/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Công an về "Tăng cường công tác chỉ đạo, quản
lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo vệ dân phố đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới". Hơn 10 năm qua, Bộ Công an, các ban, bộ, ngành, đoàn
thể, Ủy ban nhân dân các cấp đã triển khai, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị
định số 38/2006/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Nhận thức của cấp ủy đảng,
chính quyền, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể các cấp và đông đảo Nhân dân về
vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của bảo vệ dân phố được nâng lên. Lực lượng
bảo vệ dân phố được kiện toàn về tổ chức theo đúng quy định, công tác bồi dưỡng,
tập huấn pháp luật, nghiệp vụ được thực hiện thống nhất về chương trình, nội
dung, phù hợp với thực tiễn; việc bảo đảm các điều kiện hoạt động của bảo vệ
dân phố như trang bị vũ khí thô sơ, côg cụ hỗ trợ, phương tiện làm việc, bố trí
nơi làm việc, chế độ, chính sách… được quan tâm hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của bảo vệ dân phố. Lực lượng bảo vệ dân phố đã nêu
cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt công tác nắm, phản ánh cho Công an, Ủy ban
nhân dân phường tình hình an ninh, trật tự ở địa bàn; tham gia hòa giải, giải
quyết kịp thời nhiều vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân; thực
hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân tự giác chấp hành
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy tắc,
quy ước, nội quy về bảo vệ an ninh, trật tự; tích cực đôn đốc, nhắc nhở nhân dân
chấp hành các quy định của pháp luật quản lý hành chính về trật tự, an toàn phòng
cháy, chữa cháy; cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ và quản lý những lỗi lầm tại cộng đồng
dân cư; tích cực tham gia phối hợp giải quyết các vụ việc phức tạp về an ninh,
trật tự xảy ra trong địa bàn; tổ chức tuần tra, kiểm soát và tham gia các hoạt
động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi
phạm khác về trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật, góp phần bảo đảm
an ninh, trật tự ở địa bàn đô thị.