Đấu tranh phản bác với những luận điệu xuyên tạc Việt Nam không có tự do tôn giáo

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tôn trọng và tạo điều kiện t...


Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người cũng như các tôn giáo hoạt động và tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tinh thần “tín ngưỡng tự do, lương - giáo đoàn kết”. Tuy nhiên, với những âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước ta, các thế lực thù địch đã sử dụng mọi thủ đoạn và những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc cho rằng, “Việt Nam không có tự do tôn giáo”. Chúng sử dụng những luận điệu vu cáo và đánh giá thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở nước ta, ít nhiều khiến một bộ phận công chúng trong và ngoài nước hiểu chưa đúng về chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, tạo “cớ” để những tổ chức, cá nhân thù địch lợi dụng nhằm chống phá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, việc đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch nói trên là rất cần thiết và chúng ta có đầy đủ cơ sở để đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc trên.

Thứ nhất, về phương diện nhận thức luận khoa học, “tôn giáo là hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào đức tin, sự sùng bái thượng đế và đức thánh thần linh thiêng được tổ chức tương đối quy củ, có địa điểm biểu trưng, các ngày lễ, kinh bổn, nghi thức và một lớp chức sắc chuyên trách của tôn giáo”; Tại Khoản 5 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”. Như vậy, ngoài những vấn đề thuộc về tín ngưỡng (niềm tin, sự sùng bái lực lượng siêu nhiên), tôn giáo còn là một thực thể xã hội, một tổ chức có tính vật chất của một cộng đồng; tôn giáo thuộc phạm trù hoạt động thực tiễn. Vì thế, hoạt động tôn giáo ở quốc gia nào thì phải chịu sự quản lý của quốc gia đó.

Mặt khác, hoạt động tôn giáo không chỉ nhằm giải quyết nhu cầu tinh thần của một bộ phận chức sắc, tín đồ, mà còn liên quan đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chẳng hạn, việc xây dựng cơ sở thờ tự không chỉ đơn thuần là củng cố, phát triển cơ sở vật chất của giáo hội, mà còn liên quan đến quy định của nhà nước về đất đai, quy hoạch, xây dựng; hoạt động in ấn kinh sách, sản xuất đồ dùng việc đạo liên quan quy định về văn hóa, xuất bản; mối quan hệ tôn giáo trong - ngoài liên quan đến chính sách, pháp luật trên lĩnh vực đối ngoại, xuất cảnh, nhập cảnh; hoạt động đào tạo chức sắc liên quan pháp luật về giáo dục; hoạt động thiện nguyện tôn giáo liên quan đến thực hiện các chính sách an sinh xã hội... Vì thế, tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở nước ta cũng phải tuân thủ pháp luật, giống như bất kỳ quốc gia nào khác. Không thể lợi dụng vấn đề “nhân quyền” để đứng cao hơn chủ quyền quốc gia. Mọi công dân, trong đó có các chức sắc, nhà tu hành và các tín đồ tôn giáo phải có trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.

Thứ hai, về pháp lý, tại Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966, ghi rõ: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo”, đồng thời cũng khẳng định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.... Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn gỉáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo và trong rất nhiều văn bản pháp luật khác, thế hiện:

Việt Nam thừa nhận, ghi nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật;

Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo.

Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.

Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.

Bên cạnh quy định của các nhà nước và tổ chức quốc tế về tôn giáo thì giáo lý, giáo luật của nhiều tôn giáo cũng nêu rõ vai trò của nhà nước và pháp luật đối với cộng đồng và khẳng định trách nhiệm tuân thủ pháp luật của mọi tín đồ với vai trò công dân.

Thứ ba, trên thực tiễn, chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Những năm qua, các tôn giáo ở nước ta phát triển nhanh về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự, mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài; mọi hoạt động tín ngương, tôn giáo của nhân dân đều được chính quyền tôn trọng, tạo điều kiện thuạn lợi; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo ngày càng được nâng cao.

Trên thực tế, cho đến nay Nhà nước ta đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với hơn 26 triệu tín đồ, chức sắc, chức việc; 29.000 cơ sở thờ tự...Năm 2011, Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đồng tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm đạo Tin Lành có mặt tại Việt Nam; Tháng 5-2019, Giáo hội Phật giáo tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc năm 2019 tại chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam với sự tham dự của trên 3.000 đại biếu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thố... Những con số trên là minh chứng sinh động cho thấy tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được pháp luật bảo hộ và luôn được bảo đảm, thực thi trong thực tiễn, các tôn giáo có điều kiện hoạt động thuận lợi và ngày càng phát triển. Các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó đồng hành với dân tộc. Như vậy, từ những vấn đề nếu trên đã chứng minh, phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Related

Luận bàn 8435415000433504656

Đăng nhận xét

emo-but-icon

Facebook

ĐƯỢC QUAN TÂM

Nhận xét

item