CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ra trong một gia đình nhà nho, ở làng Hoàng Trù, xã Ki...
http://cainhindachieu.blogspot.com/2020/05/cuoc-oi-va-su-nghiep-chu-tich-ho-chi.html
Chủ tịch Hồ
Chí Minh sinh ngày 19/5/1890, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ra trong
một gia đình nhà nho, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân
phong kiến. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm
1901, sau khi mẫu thân qua đời, Nguyễn Sinh Cung lại theo cha trở về Nghệ An, rồi
lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số
nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành lại theo cha vào Huế, thoạt
đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế. Khoảng cuối năm 1909,
Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8-1910 vào Phan Thiết, làm giáo
viên trường Dục Thanh. Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn. Ngày 5-6-1911
với tên gọi mới là Văn Ba, lên tàu Amiran Latuso Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng
đi Mácxây (Pháp). Từ năm 1912 - 1917
Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước Châu Phi, Châu Mỹ, giữa năm 1913 người đến
nước Anh tham gia nhiều hoạt động.
Đầu năm 1919,
Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6-1919 thay mặt những người
Việt Nam yêu nước gửi bản yêu sách gồm 8 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới hội
nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (nước Pháp), đòi chính phủ các nước họp hội
nghị phải thừa nhận quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của Lênnin. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp tháng 12-1920, Nguyễn Ái
Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp,
trở thành người Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế
Nông dân (10/1923), Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm
1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban
phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế
Nông dân.
Sau khi rời
Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) tháng 11-1924 đến tháng 2-1930, Nguyễn Ái Quốc
tích cực hoạt động, chuẩn bị các điều kiện tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tháng 6-1925), mở các lớp
huấn luyện cán bộ, xuất bản Báo Thanh Niên (1925) và tác phẩm Đường cách mệnh
(1927). Hè năm 1927, khi tình hình cách mạng Trung Quốc có nhiều biến động phức
tạp, Nguyễn Ái Quốc lại đi Liên Xô, sau đó đi Đức (tháng 11-1927) rồi bí mật
sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng liên đoàn chống đế quốc
(tháng 12-1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sĩ, sang Italia. Tháng 7-1928, Nguyễn
Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc vào cuối năm 1929. Từ ngày
6-1 đến ngày 7-2-1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1930 đến
năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong
trào cách mạng trong nước. Năm 1938, Người trở về Trung Quốc chủ yếu hoạt động ở
vùng Quảng Tây cho đến năm 1941 thì về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt
Nam. Người triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xác định
đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập mặt trận Việt Minh,
sáng lập Báo Việt Nam độc lập, tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa
cách mạng, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm
1945.Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc Tuyên ngôn độc lập khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cả cuộc đời,
Bác đã dành trọn tình yêu thương của mình cho cho dân tộc, cho nhân loại. Cái
giản dị trong phong cách sống của Bác đã tạo nên hình ảnh về một vị lãnh tụ rất
đỗi gần gũi với dân, giản dị thôi, nhưng không hề giản đơn, bởi bên trong chính
một con người giản dị đó là một trí tuệ vĩ đại, một thiên tài về nghệ thuật
quân sự, một nhà văn hoá có tầm nhìn rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm và
làm việc tại quê hương Bắc Kạn là tỉnh có vị trí quan trọng ở vùng Việt Bắc.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhiều địa phương trên địa
bàn tỉnh Bắc Kạn là cơ sở cách mạng, nơi che giấu cán bộ và là nơi ở, làm việc
của nhiều cán bộ cách mạng. xã Hà Hiệu (Ba Bể) và Nà Tu (Bạch Thông)….. là một
trong những địa phương vinh dự được đón Bác Hồ.
Tháng 3 -
1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường đi công tác đã đến Nà Tu thăm hỏi sức khỏe,
nhắc nhở các cán bộ, đội viên Phân đội thanh niên xung phong 312 phải tổ
chức lao động khoa học, đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Di
tích lịch sử quốc gia Nà Tu đã trở thành điểm đến của thanh niên và du khách để
ôn lại lịch sử cách mạng những năm tháng không bao giờ quên. Chính ở nơi đây
Bác đã đọc tặng 04 câu thơ:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Bài thơ ngắn
đã trở thành phương châm hành động của thanh niên, là ý chí phấn đấu đi lên của
thế hệ trẻ.
Chuyến đi thứ
2: Vào năm 1958, nhân dịp lên khánh thành mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), trên đường
trở về theo đường Nguyên Bình qua Phia Đén xuống Nà Phặc, Bác Hồ đã ghé thăm đồng
bào các dân tộc thôn Bản Mới, xã Hà Hiệu. Tại đây, Bác đã có buổi nói chuyện
thân mật với bà con, Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe, đời sống của người dân và
tình hình kinh tế xã hội của địa phương. Tuy nhiên, ít người biết Bác từng đến
huyện Ba Bể một lần nữa vào năm 1951,cụ thể là đến thăm chuyên gia nước ngoài ở
Thôn Thạch Ngõa, xã Thượng Minh (nay là xã Mỹ Phương).
Bác Hồ - vị
cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng của
Người từ lâu đã trở thành nền tảng tinh thần của đất nước, di sản văn hóa phi vật
thể quý báu mà toàn thể dân tộc nguyện đời đời tin tưởng, noi theo. Trong mỗi
lĩnh vực, ở mỗi phương diện của đời sống xã hội đều có bóng dáng tư tưởng của
Người soi đường, dẫn lối, tựa như “kim chỉ nam” hành động. Người đã mãi đi xa,
nhưng hình ảnh về một lãnh tụ vĩ đại, đáng kính, được nhân loại biết đến và
kính nể thì mãi vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam chúng ta và
bạn bè quốc tế.