CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ HỒ CHÍ MINH QUA VIỆC LÀM RÕ CHÍNH DANH CỦA NGƯỜI.
Hiện nay, các thế lực thù địch không từ âm mưu , thủ đoạn nào để hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Nhận diện đúng và đ ề ra giải pháp đấu tra...
http://cainhindachieu.blogspot.com/2019/10/chong-luan-ieu-xuyen-tac-ve-ho-chi-minh.html
Hiện nay, các thế lực thù địch
không từ âm mưu, thủ đoạn nào để hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh.
Nhận diện đúng và đề ra giải pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn của chúng là trách nhiệm chính trị, đòi hỏi cấp bách của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta.
Các thế lực phản động, chống cộng cực đoan, các tổ chức, cá
nhân phản động người Việt Nam ở nước ngoài, các đối tượng cơ hội, bất mãn chính
trị, có nhận thức lệch lạc hoặc vì tham danh, hám lợi ở trong nước. Mục tiêu của
chúng, hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã
hội chủ nghĩa, lập nên một chính thể tư sản.
Chúng xuyên tạc, bôi nhọ cả về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh; cho rằng,
Hồ Chí Minh có tiểu sử không rõ ràng, đạo đức thấp kém, không phải là nhà tư tưởng,
nếu có thì đó là tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cực đoan, không mang bản chất, thậm
chí đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ lý thuyết, giáo điều… Và rằng, Hồ
Chí Minh không có di sản nào, thay vào đó là những “di họa". Với thủ
đoạn dựng chuyện, ngụy tạo tài liệu, phủ nhận tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh và các công trình nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước về
Hồ Chí Minh; bóp méo, cắt xén, xuyên tạc sự thật về Người; đánh đồng hiện tượng
với bản chất, thật với giả; bó hẹp, phủ nhận công lao, thành tích, so sánh,
đổi ngược những tư liệu của Người,… Đây là
những thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc, nhằm làm sai lệch bản chất tư tưởng Hồ
Chí Minh, trực tiếp công kích, đã phá nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ ta.
Có thể kể ra một số tổ chức,
cá nhân điển hình như: “Việt Tân” , nhóm “Quê mẹ”, “Diễn
đàn” , “Thông luận”, “Hợp lưu” và một số là lực lượng ngụy quân, ngụy quyền
lưu vong sau năm 1975, tập hợp trong hơn 500 tổ chức phản động người Việt nước
ngoài, luôn nuôi tư tưởng thù hận, muốn “phục quốc”, làm tay sai cho nước ngoài,
hoặc vì lợi ích cá nhân mà chống phá cách mạng Việt Nam. Một số người vốn là
cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ, nhà báo, trí thức, . . . suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhóm họp nhau trong những tổ chức
phi pháp, đi ngược lại quyền lợi của Đảng, dân tộc, thậm chí tự mình biến thành
những con rối “dân chủ” chống phá quyết liệt. Đáng buồn là, một bộ phận nhỏ
nhân dân do nhẹ dạ, cả tin nên bị các thế lực phản động, cơ hội, bất mãn chính
trị lôi kéo, kích động, hòa theo những hoạt động chống phá.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu,
thủ đoạn hồng hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh có ý nghĩa cấp thiết và cần có những
nội dung, giải pháp toàn diện, đồng bộ; trong đó, tập trung đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao chất lượng nghiên cứu, phát
triển tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, không
ngừng bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng, đất
nước trong tình hình mới, cung cấp kịp thời, quản lý hiệu quả nguồn thông tin
cho nhân dân, kiên quyết không để bị động, đi sau, góp phần triệt tiêu mọi sự
xuyên tạc, bóp méo thông tin. Do vậy hiểu tại sao Người lại lấy chính danh là Hồ
Chí Minh là góp phần vào việc làm thất bại âm mưu xuyên tạc thân thể, sự nghiệp
của Người .
1. Về thời
điểm xuất hiện chính danh Hồ Chí Minh: Cuối
năm 1939, theo sự phân công của Quốc tế Cộng sản Đảng, Người hoạt động tại Bát
lộ quân Trung Quốc với bí danh là Thiếu tá Hồ Quang. Chỉ một
thời gian ngắn, với nếp sống giản dị, phong cách cởi mở, thiểu
tá Hồ Quang đã mau chóng hoà hợp với hơn 100 sĩ quan và chiến sĩ, nên họ không
gọi Người là Hồ thiếu tá như điều lệnh quy định, mà lại gọi là Bác Hồ (Hồ
bá bá) để tỏ lòng kính mến, gần gũi. Sau đó Người trở về Việt Nam đến tháng 6
năm 1942, Người lấy tên Hồ Chí Minh, đại diện cho Mặt trận
Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung
Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến
trường Thái Bình Dương. Như vậy tên gọi Hồ Chí Minh đã được Người chọn là chính
danh của mình để đại diện cho quốc dân, đồng bào trong công cuộc đấu tranh
giành lại độc lập, tự do cho dân tộc từ thời điểm tháng 6 năm 1942 .
2. Lý do Người lấy tên gọi là Hồ Chí Minh: Trong
tập sách “Trăng sáng trong thơ Bác, trong tên Bác" của tác giả Nguyễn Tất
Hiển đã làm rõ về tên gọi Hồ Chí Minh là sự khẳng định một đức tin, một phẩm
giá của lãnh tụ cách mạng, đồng thời là một lời kêu gọi có tính cách thuyết phục
cao, nhất là đối với tầng lớp nhân dân có học thức, vị tầng lớp tri thức có vai
trò quan trọng, có tính quyết định, lực lượng cách mạng chủ chốt lúc này là: Sĩ,
Nông, Công, Thương, Binh. Khát khao độc lập tự do đối với Người là vận mệnh của
đất nước, trong tình thể quyết định nhất, là lãnh tụ cách mạng, để kêu gọi và
thuyết phục toàn dân; Người cần tỏ ra mình là: Nhân vật thông kim bác cổ (từ Hồ); Người
có tâm quyết với chí khí vươn cao (từ Chí); Luôn luôn lấy kinh nghiệm sáng suốt
của tổ tiên (từ Minh). Vì vậy, tên gọi Nguyễn Ái Quốc chuyển
sang tên gọi Hồ Chí Minh vào thời điểm phong trào cách mạng của ta ở thời điểm
năm 1942 là thích hợp nhất.
3. Ý nghĩa chính danh Hồ Chí
Minh: Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, Người
đã tìm đến và am hiểu nhiều hệ tư tưởng khác nhau để từ đó chọn lọc và tiếp thu
những tinh hoa tư tưởng cho mình. Người đã từng nói “… Khổng Tử, Giê su, Các Mác, Tôn Dật Tiên,…đều muốn
mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu họ còn sống
trên đời này và họp lại một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ chung sống với nhau
rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của
các vị ấy…”. Có thể nói rằng trước khi tìm hiểu, hấp thu
những tinh hoa của minh triết Phương Tây, Người đã thấm nhuần những tinh hoa của
minh triết Phương Đông, khi xem xét đặc tính của con người, triết học Phương
Đông chỉ ra ba nhân tố khái quát là “Nhân Trí Dũng”. Nhân tượng trưng cho nhân
tố Tình người, Trí tượng trưng cho nhân tố Trí tuệ, Dũng tượng
trưng cho nhân tố Ý chí. Tâm lý học cận đại cũng Xem tâm tính của con người gồm
ba nhân tố là “Tình cảm, Lý trí và Ý chí ”. Ở đây
Tình cảm có thể hiểu là Tình người, Lý trí có thể hiểu là Trí tuệ. Tình người,
ý chí và Trí tuệ là ba nhân tố bao trùm đời sống tinh thần, nhân cách của mỗi
con người. Qua những điều cơ bản trên, có thể đề xuất một giả thuyết về ẩn ý về
tên Người - Hồ Chí Minh trên ba nội dung cơ bản sau đây :
- Điều đầu tiên đề cập đến chính
danh của Người đó là tình người. Với lòng nhân ái bao la, Người đã dành tình
yêu thương, sự chia sẻ nỗi đau với mỗi người .
Người đau nỗi đau của một người
từng trải và chứng kiến nhiều cảnh đau thương mất mát, bao cảnh bất công, ngang
trái mà đồng bào mình, đất nước mình và các dân tộc đồng cảnh
ngộ phải gánh chịu. Lòng nhân ái, vị tha của Hồ Chí Minh xuất phát từ lẽ sống “Lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ” và dành tất cả cho mọi kiếp người, không phân
biệt miền xuôi hay miền ngược, già trẻ, gái trai, hễ là người Việt Nam yêu nước
đều có chỗ trong trái tim và tấm lòng nhân ái của Người. Đối với kẻ thù, trong
một bức thư gửi người Pháp, Người nói: “Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu
Việt đều là máu, người Pháp hay là người Việt đều là người”. Chính từ tâm lòng
khoan dung, độ lượng của Bác đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù; cảm
hóa được nhiều nhân sĩ, trí thức, kể cả các quan lại cao cấp của chế độ cũ,
không quản ngại gian khổ, hy sinh để đi theo cách mạng và kháng chiến. Đây là
lý do Người chọn chữ HỒ với dụ ý tình cảm của mình như một mặt hồ phẳng
lặng, bao dung, tượng trưng cho lòng nhân ái, tình người
.
+ Về sự lựa chọn chữ CHÍ, biểu
hiện cho trí tuệ, chí khí vươn lên của mình. Thiên tài trí tuệ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu hiện từ tuổi vị thành niên với sức học và khả năng tự
học phi thường, để rồi Người đã làm chủ một khối lượng đồ sộ kiến thức, văn
hóa đông tây, kim cổ và nhiều ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới. Đỉnh cao
của trí tuệ Hồ Chí Minh được thể hiện ở nhiều văn bản, câu nói và nổi bật là bản
Tuyên ngôn độc lập do chính Người viết và long trọng thay mặt quốc dân đồng bào
đọc khai sinh ra nước Việt nam dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn trở thành văn
kiện có giá trị to lớn trên nhiều mặt và đặc biệt nó thể hiện một trí tuệ siêu
phàm của người đã viết nên bản Tuyên ngôn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giá trị của Bản Tuyên ngôn độc lập sẽ còn lưu giữ mãi tới tận ngàn đời sau, bởi
nó là kết tinh của một trí tuệ siêu phàm mang tên Hồ Chí Minh .
+ Như đã đặt vấn đề ở trên là
Tình người, ý chí và Trí tuệ là ba nhân tố bao trùm đời sống tinh thần, nhân
cách của mỗi con người. Do vậy sự sáng tạo chính là những kinh nghiệm quý báu về
sử dụng kiến thức để xử lý những tình huống trong thực tế một cách uyển chuyển,
đạt mục đích đề ra. Sáng tạo trong hoạt động cách mạng là sự thay
đổi về phương pháp, phương thức và cách giải quyết các vấn đề làm thay đổi tình
huống cách mạng. Do vậy Người chọn chữ MINH cho chính danh của mình là với dụ ý
đó. Thực tế đã cho thấy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn nắm vững bản chất các sự kiện và các mối liên hệ bên trong và
bên ngoài, từ đó đưa ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử hợp lý nhất, sáng tạo
nhất. Có thể nhìn thấy những sáng tạo trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin
để lựa chọn con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam, khơi dậy sức mạnh của quần
chúng trong phong trào cách mạng. Người sớm nhận thấy nhân dân Việt Nam có một
lòng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” . Bằng sự kiên trì và sáng tạo của
mình, Người đã khơi dậy tinh thần yêu nước quật cường của hàng chục triệu
đồng bào cả nước, tổ chức thành một đội quân bách chiến, bách thắng. Sáng tạo lớn
lao của Hồ Chí Minh là đã thành lập được Đảng Cộng sản , Đảng lãnh đạo cho giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu lợi ích của toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà của dân,
do dân và vì dân, mà không xoá nhoà bản chất giai cấp của Đảng
và Nhà nước.
Như vậy tên của Người, HỒ CHÍ
MINH không chỉ dừng lại ở tên gọi của một lãnh tụ, vĩ nhân là đạo đức cách mạng . Bởi lẽ Đạo đức
luôn là vấn đề được Người xác định là “cái gốc của người cách mạng”, giá trị đó
đã hàm chứa trong tư tưởng Hồ Chí Minh bằng chính toàn bộ cuộc đời mình, trong
suốt hành trình tìm đường cứu nước cũng như khi giữ cương vị đứng đầu Nhà nước,
Người luôn là tâm gương mẫu mực về đời tư trong sáng, đức sống giản dị, khiêm tốn,
là tấm gương đạo đức sáng ngời về đạo đức, phong cách, về sự cống hiến không biết
mỏi mệt cho dân tộc ta và cả nhân loại, chính danh mà người
chọn đã nói lên điều đó. Vì vậy, công tác đấu tranh, phản bác các luận điệu
xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện tình cảm mà còn là trách
nhiệm chính trị thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; góp phần thực
hiện thắng lợi cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và toàn xã hội,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ./.
