CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ HỒ CHÍ MINH QUA VIỆC LÀM RÕ CHÍNH DANH CỦA NGƯỜI.

Hiện nay, các thế lực thù địch không từ âm mưu , thủ đoạn nào để hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Nhận diện đúng và đ ề ra giải pháp đấu tra...


Hiện nay, các thế lực thù địch không từ âm mưu, thủ đoạn nào để hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Nhận diện đúng và đ ra giải pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chúng là trách nhiệm chính trị, đòi hỏi cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Các thế lực phản động, chống cộng cực đoan, các tổ chức, cá nhân phản động người Việt Nam ở nước ngoài, các đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị, có nhận thức lệch lạc hoặc vì tham danh, hám lợi ở trong nước. Mục tiêu của chúng, hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa, lập nên một chính thể tư sản. Chúng xuyên tạc, bôi nhọ cả về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh; cho rằng, Hồ Chí Minh có tiểu sử không rõ ràng, đạo đức thấp kém, không phải là nhà tư tưởng, nếu có thì đó là tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cực đoan, không mang bản chất, thậm chí đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ lý thuyết, giáo điều Và rng, Hồ Chí Minh không có di sản nào, thay vào đó là những “di họa". Với thủ đoạn dựng chuyện, ngụy tạo tài liệu, phủ nhận tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các công trình nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước về Hồ Chí Minh; bóp méo, cắt xén, xuyên tạc sự thật về Người; đánh đồng hiện tượng với bản chất, thật với giả; bó hẹp, phủ nhận công lao, thành tích, so sánh, đổi ngược những tư liệu của Người, Đây là những thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc, nhằm làm sai lệch bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh, trực tiếp công kích, đã phá nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ ta.
Có thể kể ra một số tổ chức, cá nhân điển hình như: “Việt Tân” , nhóm “Quê m”, “Diễn đàn” , “Thông luận”, “Hợp lưu” và một số là lực lượng ngụy quân, ngụy quyền lưu vong sau năm 1975, tập hợp trong hơn 500 tổ chức phản động người Việt nước ngoài, luôn nuôi tư tưởng thù hận, muốn “phục quốc”, làm tay sai cho nước ngoài, hoặc vì lợi ích cá nhân mà chống phá cách mạng Việt Nam. Một số người vốn là cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ, nhà báo, trí thức, . . . suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhóm họp nhau trong những tổ chức phi pháp, đi ngược lại quyền lợi của Đảng, dân tộc, thậm chí tự mình biến thành những con rối “dân chủ” chống phá quyết liệt. Đáng buồn là, một bộ phận nhỏ nhân dân do nhẹ dạ, cả tin nên bị các thế lực phản động, cơ hội, bất mãn chính trị lôi kéo, kích động, hòa theo những hoạt động chống phá.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hồng hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh có ý nghĩa cấp thiết và cần có những nội dung, giải pháp toàn diện, đồng bộ; trong đó, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao chất lượng nghiên cứu, phát triển tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, không ngừng bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng, đất nước trong tình hình mới, cung cấp kịp thời, quản lý hiệu quả nguồn thông tin cho nhân dân, kiên quyết không để bị động, đi sau, góp phần triệt tiêu mọi sự xuyên tạc, bóp méo thông tin. Do vậy hiểu tại sao Người lại lấy chính danh là Hồ Chí Minh là góp phần vào việc làm thất bại âm mưu xuyên tạc thân thể, sự nghiệp của Người .
1. Về thời điểm xuất hiện chính danh Hồ Chí Minh: Cuối năm 1939, theo sự phân công của Quốc tế Cộng sản Đảng, Người hoạt động tại Bát lộ quân Trung Quốc với bí danh là Thiếu tá Hồ Quang. Chỉ một thời gian ngn, với nếp sống giản dị, phong cách cởi mở, thiểu tá Hồ Quang đã mau chóng hoà hợp với hơn 100 sĩ quan và chiến sĩ, nên họ không gọi Người là Hồ thiếu tá như điều lệnh quy định, mà lại gọi là Bác Hồ (Hồ bá bá) để tỏ lòng kính mến, gần gũi. Sau đó Người trở về Việt Nam đến tháng 6 năm 1942, Người lấy tên Hồ Chí Minh, đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Như vậy tên gọi Hồ Chí Minh đã được Người chọn là chính danh của mình để đại diện cho quốc dân, đồng bào trong công cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc từ thời điểm tháng 6 năm 1942 .
2. Lý do Người lấy tên gọi là Hồ Chí Minh: Trong tập sách “Trăng sáng trong thơ Bác, trong tên Bác" của tác giả Nguyễn Tất Hiển đã làm rõ về tên gọi Hồ Chí Minh là sự khẳng định một đức tin, một phẩm giá của lãnh tụ cách mạng, đồng thời là một lời kêu gọi có tính cách thuyết phục cao, nhất là đối với tầng lớp nhân dân có học thức, vị tầng lớp tri thức có vai trò quan trọng, có tính quyết định, lực lượng cách mạng chủ chốt lúc này là: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Khát khao độc lập tự do đối với Người là vận mệnh của đất nước, trong tình thể quyết định nhất, là lãnh tụ cách mạng, để kêu gọi và thuyết phục toàn dân; Người cần tỏ ra mình là: Nhân vật thông kim bác cổ (từ H); Người có tâm quyết với chí khí vươn cao (từ Chí); Luôn luôn lấy kinh nghiệm sáng suốt của tổ tiên (từ Minh). Vì vậy, tên gọi Nguyễn Ái Quốc chuyển sang tên gọi Hồ Chí Minh vào thời điểm phong trào cách mạng của ta ở thời điểm năm 1942 là thích hợp nhất.
3. Ý nghĩa chính danh Hồ Chí Minh: Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, Người đã tìm đến và am hiểu nhiều hệ tư tưởng khác nhau để từ đó chọn lọc và tiếp thu những tinh hoa tư tưởng cho mình. Người đã từng nói “ Khổng Tử, Giê su, Các Mác, Tôn Dật Tiên,đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu họ còn sống trên đời này và họp lại một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”. Có thể nói rằng trước khi tìm hiểu, hấp thu những tinh hoa của minh triết Phương Tây, Người đã thấm nhuần những tinh hoa của minh triết Phương Đông, khi xem xét đặc tính của con người, triết học Phương Đông chỉ ra ba nhân tố khái quát là “Nhân Trí Dũng”. Nhân tượng trưng cho nhân tố Tình người, Trí tượng trưng cho nhân tố Trí tuệ, Dũng tượng trưng cho nhân tố Ý chí. Tâm lý học cận đại cũng Xem tâm tính của con người gồm ba nhân tố là “Tình cảm, Lý trí và Ý chí. Ở đây Tình cảm có thể hiểu là Tình người, Lý trí có thể hiểu là Trí tuệ. Tình người, ý chí và Trí tuệ là ba nhân tố bao trùm đời sống tinh thần, nhân cách của mỗi con người. Qua những điều cơ bản trên, có thể đề xuất một giả thuyết về ẩn ý về tên Người - Hồ Chí Minh trên ba nội dung cơ bản sau đây :
- Điều đầu tiên đề cập đến chính danh của Người đó là tình người. Với lòng nhân ái bao la, Người đã dành tình yêu thương, sự chia sẻ nỗi đau với mỗi người .
Người đau nỗi đau của một người từng trải và chứng kiến nhiều cảnh đau thương mất mát, bao cảnh bất công, ngang trái mà đồng bào mình, đất nước mình và các dân tộc đồng cảnh ngộ phải gánh chịu. Lòng nhân ái, vị tha của Hồ Chí Minh xuất phát từ lẽ sống “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên h” và dành tất cả cho mọi kiếp người, không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, già trẻ, gái trai, hễ là người Việt Nam yêu nước đều có chỗ trong trái tim và tấm lòng nhân ái của Người. Đối với kẻ thù, trong một bức thư gửi người Pháp, Người nói: “Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu, người Pháp hay là người Việt đều là người”. Chính từ tâm lòng khoan dung, độ lượng của Bác đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù; cảm hóa được nhiều nhân sĩ, trí thức, kể cả các quan lại cao cấp của chế độ cũ, không quản ngại gian khổ, hy sinh để đi theo cách mạng và kháng chiến. Đây là lý do Người chọn chữ H với dụ ý tình cảm của mình như một mặt hồ phẳng lặng, bao dung, tượng trưng cho lòng nhân ái, tình người .
+ Về sự lựa chọn chữ CHÍ, biểu hiện cho trí tuệ, chí khí vươn lên của mình. Thiên tài trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu hiện từ tuổi vị thành niên với sức học và khả năng tự học phi thường, để rồi Người đã làm chủ một khối lượng đồ sộ kiến thức, văn hóa đông tây, kim cổ và nhiều ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới. Đỉnh cao của trí tuệ Hồ Chí Minh được thể hiện ở nhiều văn bản, câu nói và nổi bật là bản Tuyên ngôn độc lập do chính Người viết và long trọng thay mặt quốc dân đồng bào đọc khai sinh ra nước Việt nam dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn trở thành văn kiện có giá trị to lớn trên nhiều mặt và đặc biệt nó thể hiện một trí tuệ siêu phàm của người đã viết nên bản Tuyên ngôn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giá trị của Bản Tuyên ngôn độc lập sẽ còn lưu giữ mãi tới tận ngàn đời sau, bởi nó là kết tinh của một trí tuệ siêu phàm mang tên Hồ Chí Minh .
+ Như đã đặt vấn đề ở trên là Tình người, ý chí và Trí tuệ là ba nhân tố bao trùm đời sống tinh thần, nhân cách của mỗi con người. Do vậy sự sáng tạo chính là những kinh nghiệm quý báu về sử dụng kiến thức để xử lý những tình huống trong thực tế một cách uyển chuyển, đạt mục đích đề ra. Sáng tạo trong hoạt động cách mạng là sự thay đổi về phương pháp, phương thức và cách giải quyết các vấn đề làm thay đổi tình huống cách mạng. Do vậy Người chọn chữ MINH cho chính danh của mình là với dụ ý đó. Thực tế đã cho thấy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững bản chất các sự kiện và các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, từ đó đưa ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử hợp lý nhất, sáng tạo nhất. Có thể nhìn thấy những sáng tạo trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin để lựa chọn con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam, khơi dậy sức mạnh của quần chúng trong phong trào cách mạng. Người sớm nhận thấy nhân dân Việt Nam có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” . Bằng sự kiên trì và sáng tạo của mình, Người đã khơi dậy tinh thần yêu nước quật cường của hàng chục triệu đồng bào cả nước, tổ chức thành một đội quân bách chiến, bách thắng. Sáng tạo lớn lao của Hồ Chí Minh là đã thành lập được Đảng Cộng sản , Đảng lãnh đạo cho giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu lợi ích của toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà của dân, do dân và vì dân, mà không xoá nhoà bản chất giai cấp của Đảng và Nhà nước.
Như vậy tên của Người, HỒ CHÍ MINH không chỉ dừng lại ở tên gọi của một lãnh tụ, vĩ nhân là đạo đức cách mạng . Bởi l Đạo đức luôn là vấn đề được Người xác định là “cái gốc của người cách mạng”, giá trị đó đã hàm chứa trong tư tưởng Hồ Chí Minh bằng chính toàn bộ cuộc đời mình, trong suốt hành trình tìm đường cứu nước cũng như khi giữ cương vị đứng đầu Nhà nước, Người luôn là tâm gương mẫu mực về đời tư trong sáng, đức sống giản dị, khiêm tốn, là tấm gương đạo đức sáng ngời về đạo đức, phong cách, về sự cống hiến không biết mỏi mệt cho dân tộc ta và cả nhân loại, chính danh mà người chọn đã nói lên điều đó. Vì vậy, công tác đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện tình cảm mà còn là trách nhiệm chính trị thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; góp phần thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ./.

Related

Luận bàn 647744448193922004

Đăng nhận xét

emo-but-icon

Facebook

ĐƯỢC QUAN TÂM

Nhận xét

item