QUAN HỆ VIỆT - TRUNG: NHÌN TỪ BIỂN ĐÔNG & ĐỐI SÁCH CỦA VIỆT NAM
MỞ ĐẦU Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, xã hội chủ nghĩa do hai Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lịch sử quan hệ hai nước có những b...
http://cainhindachieu.blogspot.com/2019/07/quan-he-viet-trung-nhin-tu-bien-ong-oi.html
MỞ ĐẦU
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, xã hội chủ nghĩa do hai Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lịch sử quan hệ hai nước có những bước thăng trầm.
Những năm 60 của thế kỷ 20 thật là hữu nghị.
Việt Nam - Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông.
Chung một Biển Đông, mối tình hữu nghị sớm như rạng đông.
.......
Chung một Biển Đông, mối tình hữu nghị sớm như rạng đông.
.......
Từ cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc do Trung Quốc gây ra dẫn đến một giai đoạn đen tối trong quan hệ giữa hai nước. Hai bên đã có những bước đi tích cực tiến tới bình thường hoá quan hệ hoàn toàn vào năm 1992. Đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền vào năm 2009. Đã tổ chức cuộc mít tinh chào mừng thành công, kết thúc việc phân giới cắm mốc biên giơi đất liền dài hơn 1400 ki-lô-mét giữa hai nước sau 10 năm chiến tranh, 10 năm đàm phán, 10 năm thực hiện phân giới cắm mốc ngoài thực địa, tròn 30 năm vô cùng khó khăn, phức tạp và đấu tranh kiên trì của Việt Nam. Cuộc mít tinh được tổ chức tại cửa khẩu quốc tế Thanh Thuỷ - Hà Giang, nơi diễn ra giao tranh ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, qua 10 năm, đạn pháo của Trung Quốc bắn sang không lúc nào ngơi, nơi đây đá hoá thành vôi còn có biệt danh là "Lò vôi thế kỷ". Đã ra tuyên bố chung là hai bên đều thắng. Với Việt Nam là thắng lợi thật, lần đầu tiên trong lịch sử hơn 4 nghìn năm, Việt Nam ký một hiệp ước về biên giới lãnh thổ ngang bằng với Trung Quốc. Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, năm 938 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, tuyên bố Độc lập. Đến thời nhà Đinh, Đinh Bộ Lĩnh lập ra nước Đại Cồ Việt, từ đó dân tộc ta liên tiếp đánh bại các cuộc xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Hoa, thắng nhưng vẫn phải sang cống nạp, vẫn là chư hầu của phương Bắc. Đến thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam mới có độc lập tự do, quan hệ với Trung Quốc là hai quốc gia bình đẳng. Đường biên giới được phân giới cắm mốc, hai bên ký kết, các cột mốc có toạ độ vệ tinh gửi lên cơ quan Liên hợp quốc quản lý, đây là một thắng lợi lịch sử của Việt Nam.
Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ là thoả hiệp ký ngày 25 tháng 12 năm 2000 giữa chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh nhằm xác định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Bắc Bộ. Đây là kết quả sau nhiều đợt đàm phán kể từ năm 1973. Hiệp định này thay thế Công ước Pháp-Thanh 1887. Hai bên đang đàm phán về phân định cửa Vịnh Bắc Bộ.
Hiện nay còn bất đồng gay gắt và sâu sắc trên biển đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và khu vực DK1.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ DIỄN RA TRONG LỊCH SỬ TRÊN BIỂN
1. Đảo Bạch Long Vỹ
Đảo Bạch Long Vĩ nằm giữa Vịnh Bắc Bộ, theo công ước
Pháp Thanh kí năm 1887, Bạch Long Vỹ thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Pháp Thanh kí năm 1887, Bạch Long Vỹ thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Năm 1920 người Pháp tìm ra nước ngọt, dân trong đất liền ra sinh sống, chính quyền bảo hộ Pháp giao cho Bảo Đại đưa quân ra đóng giữ đảo này.
Năm 1941 Nhật vào xâm lược Việt Nam, chiếm đảo Bạch Long Vĩ. Năm 1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân Tưởng Giới Thạch vào giải giáp quân Nhật và chiếm đóng Bạch Long Vỹ.
Khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ, hiệp định Gionevo được ký kết, Pháp rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam, Việt Nam dân chủ cộng hoà chưa có điều kiện ra giải phóng đảo Bạch Long Vỹ. Năm 1955 Trung Quốc đưa quân ra đánh chiếm đảo Bạch Long Vỹ từ tay quân Tưởng Giới Thạch.
Năm 1957 , ĐCSTQ và ĐCS VN đã kí một thỏa thuận trao trả đảo Bạch Long Vĩ cho Việt nam , cư dân TQ trên đảo này trở thành Hoa Kiều. Khi chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông thông báo trả Bạch Long Vĩ cho Việt Nam, chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh nói: Việt Nam không có tàu, nhờ các đồng chí Trung Quốc giữ hộ, Mao Trạch Đông đã thông báo tặng Việt Nam hai con tàu vận tải để ra tiếp quản Bạch Long Vỹ. Bạch Long Vỹ trở về chủ quyền của Việt Nam từ năm 1957. Năm 1982 tôi ra Bạch Long Vỹ công tác, gắn bó với nơi đây gần ba năm, thiết kế, thi công công trình chiến đấu phòng thủ đảo. Trung Quốc đã xây dựng một đường hầm và một số công trình chiến đấu từ năm 1955 đến năm 1957 trên đảo Bạch Long Vỹ và có đường cáp ngầm liên thông toàn đảo.
Hiện nay có nhiều ý kiến xung quanh sự việc này. Có ý kiến cho rằng do tình hữu nghị anh em giữa hai nước nên Trung Quốc trao trả Bạch Long Vĩ cho Việt Nam. Có ý kiến cho rằng đây là một âm mưu của Trung Quốc " thả con săn sắt, bắt con cá sộp", cả hai luồng ý kiến đều có lý.
Hiện nay có nhiều ý kiến xung quanh sự việc này. Có ý kiến cho rằng do tình hữu nghị anh em giữa hai nước nên Trung Quốc trao trả Bạch Long Vĩ cho Việt Nam. Có ý kiến cho rằng đây là một âm mưu của Trung Quốc " thả con săn sắt, bắt con cá sộp", cả hai luồng ý kiến đều có lý.
2. QUẦN ĐẢO HOÀNG SA
Quần đảo Hoàng là một nhóm khoảng 30 đảo, bãi san hô và mỏm đá ngầm nhỏ ở Biển Đông. Quần đảo Hoàng Sa nằm ở khu vực Bắc Biển Đông, cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 200 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 230 hải lý. Hoàng Sa, có nghĩa là "cát vàng", là tên Người Việt đặt cho quần đảo này.
Theo hiệp định Gionevo, vĩ tuyến 17 là ranh giới quân sự tạm thời kéo dài ra biển, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam trước khi tổng tuyển cử.
Năm 1956, trong lúc Pháp rút quân khỏi Đông Dương, Trung Quốc nhân cơ hội này đưa quân chiếm các đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa trong tay quân đội Sài Gòn.
Năm 1972 tổng thống Mỹ Nich Xơn sang thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước đã có thoả thuận với nhau... Sau hiệp định Pa ri được ký kết, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, lợi dụng tình hình đó, năm 1974 Trung Quốc đưa lực lượng Hải quân đánh chiếm hết các đảo phía Tây quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam do quân nguỵ Sài Gòn đang quản lý. Đã xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa. Ngày 15 tháng 1 năm 1974, sau khi tuyên bố lên án chính quyền VNCH đã “xâm lấn đất đai của Trung Quốc”, “tất cả các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Đông Sa và Trung Sa là lãnh thổ của Trung Quốc”… Trung Quốc đã đưa quân đổ bộ và cắm cờ Trung Quốc lên các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa và Duy Mộng thuộc nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 17 tháng 01 đến ngày 20 tháng 01 năm 1974, trận hải chiến giữa lực lượng hải quân ngụy Sài Gòn và lực lượng hải quân của Trung Quốc xảy ra. Quân ngụy Sài Gòn thua trận, nhiều binh sĩ đã tử trận. Hải quân nguỵ Sài Gòn mạnh hơn nhưng bạc nhược, tàu chiến bị bắn chìm, tháo chạy, quân trên đảo đầu hàng, giao toàn bộ Hoàng Sa cho Trung Quốc. Nguyễn Văn Thiệu - Tổng thống Việt Nam cộng hoà yêu cầu tổng thống Mỹ Ních Xơn cho hạm đội 7 của Mỹ ở Biển Đông chi viện, Mỹ đã làm ngơ vì chính Nich Xơn đã thoả thuận với Trung Quốc để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa.
Khi ấy Việt Nam dân chủ cộng hoà đang cần Trung Quốc viện trợ để giải phóng hoàn toàn miền Nam nên chưa lên tiếng phản đối Trung Quốc. Sau khi miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc trả lại Hoàng Sa như đã trả Bạch Long Vĩ, Trung Quốc đã có những lời lẽ rất xấu và kiên quyết không trả.
Hoàng Sa là quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam bị Trung Quốc đánh chiếm bằng vũ lực là hành động xâm chiếm trái phép. Đây là vấn đề còn đấu tranh lâu dài giữa hai bên.
3. QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông trải trên một khu vực biển khá rộng, chiều ngang từ đông sang tây khoảng 170 hải lý (300 km), chiều dọc từ bắc xuống nam khoảng 330 hải lý (611 km). Đảo Trường Sa gần nhất cũng cách Cam Ranh 250 hải lý (463 km), đảo Tiên Nữ xa nhất về phía đông cách Cam Ranh 390 hải lý (hơn 700 km). Quần đảo bao gồm các đảo, các bãi cạn, bãi đá ngầm với khoảng 140 vị trí.
Tổng số có 17 đảo nổi
Phi Líp Pin chiếm 7 đảo từ tay quân đội nguỵ Sài Gòn vào năm 1970.
Đài Loan chiếm 1 đảo từ tay quân đội nguỵ Sài Gòn vào năm 1956.
Việt Nam hiện quản 9 đảo. Tháng 4/1975 ta giải phóng 5 đảo do quân đội Sài Gòn đóng giữ bao gồm: Trường Sa, Nam Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn, Sơn Ca. Năm 1978 ta đóng hết 4 đảo nổi nhỏ còn lại bao gồm: Trường Sa Đông, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, An Bang.
Tất cả các bãi cạn (còn gọi là đảo chìm) ta đã đặt các bia chủ quyền và thường xuyên kiểm tra quản lý đặt các bia mốc, chưa tổ chức đóng giữ đảo.
Tháng 4/1986 Phó đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân dẫn đầu đoàn cán bộ Hải quân, có sự tham gia của cơ quan Bộ quốc phòng đi kiểm tra, chỉ đạo các mặt toàn bộ quần đảo Trường Sa. Tôi và anh Đỗ Văn Thông đều là Đại uý , kỹ sư - trợ lý phòng Công binh, tôi được giao nhiệm vụ thay mặt thủ trưởng phòng, đi cùng Tư lệnh. Đến đảo chìm Thuyền Chài, Tư lệnh chỉ thị tàu thả neo, cho xuồng vào kiểm tra mốc chủ quyền của ta, phát hiện có hiện tượng vi phạm, nhòm ngó của nước ngoài. Tư lệnh Giáp Văn Cương nói: Sẽ có tranh chấp đảo chìm xảy ra và chỉ đạo các biện pháp chuẩn bị đối phó. Tháng 11 năm 1986 nhà C3 đầu tiên được lắp dựng trên đảo chìm Thuyền Chài. Kết cấu nhà gồm: cột bê tông, tận dụng cột điện gỗ thông cũ ở Cam ranh của Mỹ cắt ra làm dầm và chống xiên, sàn lát ghi nhôm, mái lợp vòm tôn. Đại uý kỹ sư Đỗ Văn Thông trợ lý Phòng Công binh cùng Thượng uý kỹ sư Hoàng Anh Dũng - trợ lý Ban công binh V4 thiết kế, phân đội công binh Vùng 4 ra triển khai. Sang năm 1987 Tư lệnh trực tiếp ra kiểm tra thấy chưa yên tâm, Ông quyết định xây dựng một nhà lâu bền còn gọi là nhà C1 bên cạnh nhà C3, kết cấu bằng đá xây kết hợp bê tông cốt thép lắp ghép.
Ngày 31/12/1986 Ma lay xia đưa quân chiếm đóng hai đảo chìm là Kỳ Vân và Kiều Ngựa. Ngày 14/2/1986 Trung Quốc đưa tầu chiến giả dạng tầu cá đến trinh sát một số bãi cạn ở Trường Sa và đặt các tấm bê tông " kỷ niệm " ở một số bãi cạn. Ngày 3/9/1987 Quốc hội Trung Quốc thông qua quy chế đưa đảo Hải Nam thành tỉnh và sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào Hải Nam. Sau đó họ liên tục cho tầu chiến giả dạng tầu dân sự để khảo sát, trinh sát thăm dò quần đảo Trường Sa của ta nhằm âm mưu xâm chiếm các đảo chìm.
Trước tình hình đó BTLHQ khẩn trương nghiên cứu phương án đóng giữ các đảo chìm từ cuối năm 1987. Đã đóng 2 pông tông có nhà phủ bạt trên boong đưa ra đóng giữ Đá Đông và Đá Tây, nhưng do sóng gió lớn pông tông Đá Tây bị đứt neo trôi không chịu được phải kéo về Đá Đông. Chuyển sang phương án chủ yếu là dùng tầu vận tải, tàu đổ bộ LCU và các nhà cao chân C3 để chốt giữ các đảo chìm.
Khi phát hiện Trung Quốc đưa tầu chiến xuống Trường Sa, chúng ta đã đưa các tầu vận tải và các lực lượng Công binh, Hải quân đánh bộ, lực lượng chốt giữ đảo ra đóng giữ. Từ 28/12/1987 đến 15/1/1988 đã lắp dựng xong nhà C3 ở Đá Tây.
Đã xác định đảo Chữ Thập nằm ở trung tâm của quần đảo là vị trí hết sức quan trọng. Ngày 27/1 đã cử một biên đội tầu vận tải do đồng chí Phạm Công Phán lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy lực lượng trên tàu HQ611 và HQ712 ra chốt giữ. Do sóng gió lớn, tầu hỏng máy, đến chậm, khi tới thì Trung Quốc đã chiếm từ 22/1.
Một số đảo chìm khác ta cũng đưa tầu vận tải, tàu đổ bộ LCU, pông tông, khung nhà C3 cùng lực lượng ra chốt giữ. Với lực lượng tầu của Lữ đoàn 125 , Trung đoàn Công binh 83, Trung đoàn Công binh 131, Lữ đoàn giữ đảo 146, Lữ đoàn HQĐB 126, Tiểu đoàn Công bịnh V4, đã quyết tâm tổ chức đóng giữ các đảo chìm.
Trung Quốc với lực lượng tầu chiến mạnh, ngăn cản, đe doạ, tầu ta nhỏ bị họ đẩy ra chiếm mất một số đảo.
Đã xảy ra sự tranh chấp quyết liệt của hải quân Trung Quốc đối với Hải quân Việt Nam. Ngày 14/3/1988 Trung Quốc đưa nhiều tàu chiến xuống âm mưu chiếm các đảo chìm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao thuộc cụm đảo Sinh Tồn. Lực lượng Hải quân ta đã đấu tranh kiên quyết. Đối phương với số lượng tầu chiến huy động đông ( 9-12 chiếc), các tầu khu trục, hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo, hoả lực mạnh, đã hung hãn bắn chìm tàu vận tải HQ 604 ở Gạc Ma, HQ 605 ở Len Đao, bắn cháy tàu đổ bộ HQ 505 ở Cô Lin, chiếm đóng trái phép đảo Gạc Ma.
DIỄN BIẾN CỤ THỂ
+ Tại Gạc Ma hai phân đội của trung đoàn Công binh 83 và hai phân đội của lữ đoàn 146, một tổ đo đạc của Đoàn 6 hải đồ cùng đi trên tàu HQ604, hai phân đội của hai đơn vị có nhiệm vụ dựng nhà chốt giữ đảo Gạc Ma và đảo Len Đao. Một bộ phận đã đổ bộ lên đảo cắm cờ Việt Nam và đang vận chuyển vật liệu lên dựng nhà C3 trên đảo Gạc Ma. Trung Quốc đã cho quân lính lên tranh chấp với ta, chúng giật cờ trong tay Trung uý Trần Văn Phương - sĩ quan chỉ huy phân đội của lữ đoàn 146 không được, tên chỉ huy đã dùng súng ngắn bắn chết Trung uý Phương. Chiến sĩ Nguyễn Văn Lanh của Trung đoàn Công binh 83 đã nhanh nhẹn dùng xà beng đánh văng khẩu súng ngắn trong tay tên sĩ quan Trung Quốc, rồi lao vào quyết tâm giữ lá cờ Tổ quốc, lá cờ đã được dựng lên là thể hiện chủ quyền của Việt Nam tại đảo Gạc Ma. Quân Trung Quốc không giật được cờ đã dùng lưỡi lê đâm vào vai đồng chí Lanh từ phía sau cho gục xuống. Các chiến sỹ trên tàu HQ604 được lệnh nhảy xuống biển bơi vào tăng cường lực lượng bảo vệ lá cờ. Quân ta đã nắm tay nhau đứng vòng quanh quyết bảo vệ lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, dùng xà beng, dụng cụ lao động chống trả lại những hành động hung hãn của quân thù. Không thể phá vỡ được vòng tròn bất tử của các chiến sỹ Hải Quân nhân dân Việt Nam, không chiếm được lá cờ, chúng rút quân lên tầu rồi xả pháo 37 ly, súng 12,7 ly bắn vào số cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn 83 lắp dựng nhà và một tổ của lữ đoàn 146 ra giữ đảo, tổ đo đạc của Đoàn 6 làm một số chiến sĩ hi sinh và bị thương. Chúng dùng pháo bắn chìm tàu HQ604.
Khi tàu Trung Quốc rút đi, nước lên đến ngực không thể trụ lại được, thượng uý Nguyễn Văn Chương trung đội trưởng của Trung đoàn 83 cho anh em dựng lại lá cờ, do cán cờ bị gẫy phải dùng ba thanh bê tông chống lại để giữ lá cờ. Đồng chí Chương chỉ huy bộ đội xé quần áo bịt lỗ thủng trên xuồng nhôm do đạn của tàu Trung Quốc bắn, đưa thương binh tử sĩ lên xuồng cùng số anh em dùng các mảnh gỗ làm mái chèo, chèo xuồng về đảo Cô Lin cách đó hơn 5 ki - lô - mét từ 10 giờ sáng đến 6 giờ chiều về đến gần Cô Lin. Tàu HQ505 do thuyền trưởng Vũ Huy Lễ chỉ huy đưa xuồng máy ra ứng cứu và đưa hết số chiến sỹ còn lại ở Gạc Ma về Cô Lin.
+ Tại Cô lin vào lúc 6 giờ ngày 14/3/1988 tàu HQ605 đã cắm hai lá cờ trên bãi đá. Khi thấy tàu của Trung Quốc bắn vào tàu HQ604, đồng chí Vũ Huy Lễ thuyền trưởng tàu HQ505 lập tức ra lệnh nhổ neo ủi bãi kiên quyết bảo vệ đảo của ta. Hai tàu hộ vệ 502 và 531 của Trung quốc lại điên cuồng bắn vào tàu HQ505 làm tàu hỏng một máy. Song tàu HQ505 vẫn kiên cường chạy hết tốc lực ủi bãi, dùng bánh lái điều khiển tàu, trườn được hai phần ba thân tàu lên bãi sn hô thì bốc cháy. Cán bộ chiến sĩ trên tàu dũng cảm dập lửa bảo vệ tàu và tổ chức cấp cứu thương binh. Đồng thời nhanh chóng đưa xuồng máy đến Gạc Ma đón, cứu, vớt đồng đội.
+ Tại Len Đao vào 5 giờ ngày 14 tháng 3 tàu HQ605 cho bộ đội lên cắm cờ trên bãi đá. Đến 8g 20 phút tàu hộ vệ 556 của Trung Quốc từ Gạc Ma tới dùng pháo bắn vào tàu HQ605 làm tàu bốc cháy. Bộ đội ta dũng cảm dập lửa cứu tàu nhưng do cháy quá lớn nên phải rời tàu lên xuồng về đảo Sinh Tồn. Đến 3 giờ ngày 15 tháng 3 tàu HQ605 chìm xuống biển ở bãi đá Len Đao.
Trong cuộc chiến đơn phương do Trung Quốc gây ra này, tổng số 64 cán bộ chiến sỹ Hải Quân đã hy sinh ở 2 đảo Gạc Ma và Len Đao, trong đó chủ yếu trên tàu HQ 604 ở Gạc Ma, trong đó có 26 đồng chí của Trung đoàn Công binh 83. Tại đảo Gạc Ma còn hơn bốn chục người trong đó có 38 cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn 83 ẩn nấp tránh được làn đạn như mưa của địch, khi chúng rút đi anh em dùng xuồng của Công binh và xuồng của tàu HQ505 sang đón đưa về Cô Lin sau đó đưa về đảo Sinh Tồn cứu chữa thương binh rồi trở về bờ an toàn.
Họ bắt đi 9 người, khi tàu HQ604 bị chìm, anh em thoát ra được trôi trên biển, trong đó có 6 chiến sĩ của của Trung đoàn Công binh 83 mang về đảo Hải Nam giam giữ, năm 1991 họ trao trả, tôi là Trung đoàn trưởng ra nhận 6 chiến sĩ của Trung đoàn CB 83, đưa anh em ra Hạ Long an dưỡng.
Trước tình hình đó chúng ta nhờ bạn đưa tầu bệnh viện, tầu kéo của Hạm đội Thái Bình Dương đang đậu ở quân cảng Cam Ranh ra giúp cứu thương binh lấy tử sỹ nhưng cũng không được.
Tư lệnh Hải quân tiếp tục chỉ huy, được tàu kéo Mỹ Á của Bộ giao thông vận tải chi viện cùng tàu vận tải của Hải quân treo cờ chữ thập đỏ ra cứu thương binh, lấy tử sĩ, đón bộ đội từ Cô Lin về đảo Sinh Tồn. Trong điều kiện bị tàu chiến của Trung Quốc ngăn cản đe doạ, chúng ta vẫn đưa tàu vận tải và tàu đổ bộ LCU ra chốt giữ đảo Len Đao. Sau đó Trung đoàn 83 ra dựng nhà sắt C2 chốt giữ hai đảo Cô Lin và Len Đao.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Quân chủng Hải quân trong những năm qua đã giành được những thắng lợi rất lớn. Tháng 4/1975 giải phóng 5 đảo từ quân nguỵ Sài Gòn bao gồm : Trường Sa, Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Song Tử Tây. Đến năm 1978 đóng tiếp 4 đảo nổi còn lại là : Trường Sa Đông, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, An Bang. Khi phát hiện Trung Quốc có ý đồ xâm chiếm các đảo chìm, ta đã chủ động đóng giữ trước các đảo chìm từ cuối năm 1986 đến đầu năm 1988 trong điều kiện, hoàn cảnh đất nước vô cùng khó khăn về mọi mặt. Khi xẩy ra sự kiện tranh chấp ba đảo trong ngày 14/3/1988, Trung Quốc với lực lượng Hải quân mạnh, tàu chiến lớn, nhiều, hoả lực mạnh. Chúng đã bắn chìm hai tàu vận tải HQ 604, HQ 605, bắn cháy tàu đổ bộ HQ 505, nhưng chỉ chiếm được đảo chìm Gạc Ma, chúng ta vẫn giữ được hai đảo chìm Cô Lin và Len Đao. Trong đợt tranh chấp các đảo chìm này Hải quân Việt Nam đóng giữ được 12 đảo chìm, trong khi Trung Quốc xâm chiếm 6 đảo. Hiện nay Việt Nam đang quản lý 9 đảo nổi, 12 đảo chìm, tổng số 21 đảo với 32 điểm đóng quân, nhiều nhất trong các nước đòi chủ quyền ở Trường Sa.
Trung tá Vũ Huy Lễ thuyền trưởng tầu HQ 505, Trung tá liệt sĩ Trần Đức Thông Phó lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 , Đại uý liệt sĩ Vũ Phi Trừ thuyền trưởng tầu HQ 604, Trung uý liệt sĩ Trần Văn Phương đại đội trưởng / Lữ đoàn 146 , Bịnh nhất Nguyễn Văn Lanh chiến sỹ của Trung đoàn Công Bịnh 83 đã được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trung Quốc chọn thời điểm từ cuối năm 1987 đến đầu năm 1988 gió mùa đông bắc rất mạnh, sóng lớn để thực hiện âm mưu chiếm đóng, đánh chiếm các đảo chìm của ta ở Trường Sa. Các tầu của ta nhỏ chịu sóng gió kém, chưa có định vị vệ tinh, đi dễ lạc đường không bắt được đảo chìm nên gặp nhiều khó khăn bất lợi. Lực lượng tầu của Hải quân ta lúc đó còn yếu, chúng ta có tầu Phóng lôi và tầu Tên lửa, tầu Pháo nhưng đều là loại nhỏ tiến công ven bờ, chịu sóng gió kém, không có khả năng tác chiến dài ở ngoài Trường Sa được. Về không quân các máy bay MIC không bay tới Trường Sa, ta có máy bay SU 22 cũng chỉ bay ra hoạt động được khoảng thời gian rất ngắn và ra đa dẫn đường chưa với tới được nên khả năng tác chến rất hạn chế. Trong khi đối phương có các tầu chiến lớn: khu trục, hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo với số lượng nhiều và hoả lực rất mạnh, lực lượng không cân sức. Đồng thời lúc đó chúng ta còn đang phải đối phó với cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và lực lượng còn đang ở Căm Pu Chia giúp bạn. Tình hình kinh tế đất nước vô cùng khó khăn. Về đối ngoại cũng không thuận lợi khi chúng ta đưa quân vào Căm Pu Chia giúp nhân dân bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Khơ me đỏ.
Có người phát biểu, viết là do có lệnh “không được nổ súng“ nên đã mất Gạc Ma. Nói như vậy là hoàn toàn sai trái, xuyên tạc. Cán bộ chiến sĩ Hải quân luôn quán triệt tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là giữ gìn môi trường hoà bình, không khiêu khích, không mắc mưu để đối phương tạo cớ đánh ta. Nhưng khi bị tiến công thì kiên quyết chiến đấu đánh trả tự vệ để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc . Phải hiểu rằng tác chiến trên biển hoàn toàn khác với tác chiến trên đất liền. Tương quan lực lượng Hải quân của hai bên khi đó và trực tiếp ở Trường Sa ta ở thế yếu. Tình hình các mặt của đất nước vô cùng khó khăn. Dưới sự chỉ đạo của cấp trên, Tư lệnh Giáp Văn Cương xử lý tình hình lúc đó là hết sức sáng suốt, giữ được trạng thái ổn định sau 14/3 không để họ tiếp tục lấn tới.
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
Sau sự kiện Gạc Ma, chúng ta tiếp tục lắp dựng bổ xung các nhà tạm C3, nhà sắt C2, nhà lâu bền C1 trên các đảo chìm để chốt giữ khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Lực lượng Công binh Hải quân bao gồm: Phòng Công binh, Trung đoàn CB 83, Trung đoàn CB 131, Tiểu đoàn CB Vùng 4 cùng Lữ đoàn 229 của Bộ tư lệnh Công binh thực hiện nhiệm vụ. Thật tự hào, lực lượng Công binh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Đã mưu trí dũng cảm, sáng tạo trong thiết kế, gia công, vận chuyển, lắp dựng 14 nhà C3, 8 nhà C2, tiếp theo là các nhà C1, trên các đảo chìm ngập nước giữa Trường Sa trong mùa sóng gió. Góp phần quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc chốt giữ 12 đảo chìm ở thời điểm lịch sử đó trước mũi súng quân thù. Nhà C3 là công trình dã chiến nhưng có giá trị và ý nghĩa cao đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc ở Trường Sa. Chiến công xuất sắc ấy, giá trị khoa học công nghệ đó mãi mãi được in vào lịch sử của Hải quân anh hùng, của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng. Chiến công của lực lượng Công binh Hải quân góp phần tô thắm thêm lá cờ MỞ ĐƯỜNG THẮNG LỢI mà Bác Hồ đã trao tặng cho Bộ đội Công binh Anh hùng.
Trước tình hình tương quan lực lượng như vậy, Tư lệnh Giáp Văn Cương quyết định tìm cách đưa tầu ra Trường Sa để răn đe đối phương. Ông đã giao cho Trung đoàn Công binh 83 thi công cải tạo luồng vào hồ Đá Đông và hồ Đá Tây, đặc biệt là quyết định đào con kênh dài 750 mét, rộng 50 mét, sâu 5 mét, nối thông lòng hồ ở đảo Đá Lớn với biển cho tầu ra trực chiến, làm giảm sự uy hiếp của đối phương. Đồng chí Giáp Văn Cương đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
4. KHU VỰC THỀM LỤC ĐỊA VÀ HỆ THỐNG NHÀ DÀN DK1
Sau sự kiện Gạc Ma ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc đưa tàu thăm dò của họ xuất hiện sâu xuống phía nam vùng thềm lục địa của Việt Nam. Với tầm nhìn chiến lược, Đô đốc Giáp Văn Cương, được sự chỉ đạo của cấp trên, ông đã giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 171 cử biên đội tầu HQ 713 và HQ 668 do trung tá Phạm Hoa Lữ đoàn trưởng chỉ huy, khảo sát đo đạc khu vực thềm lục địa Nam Biển Đông nước ta có 6 bãi đá ngầm san hô có đỉnh nhô cao dưới mặt nước biển từ 9- 25 mét..Phía Bắc là Phúc Tần (160km2),Huyền Trân (40km2), phía Đông Nam là Ba Kè (1.000km2), phía Tây Nam là Tư Chính (700km2), nằm giữa Phúc Tần và Tư Chính là Phúc Nguyên (300km2) và Quế Đường (90km2). Như thế vùng biển DK1 rộng khoảng 80.000km2, cách đất liền từ 250 đến 300 hải lý. Đây là khu vực có vị trí đặc biệt quan trọng về An ninh -Quốc phòng, là rào chắn phía ngoài vùng khai thác dầu khí, khu vực rất giàu tài nguyên khoáng sản và tài nguyên biển, là tiền đồn phía Nam Trường Sa và nó án ngữ trên đường hàng hải Quốc tế qua biển Đông...
...Theo đề nghị của Tư lệnh Hải quân và Bộ Quốc phòng, Bộ Chính trị quyết định và ngày 17/10/1988 Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã ký QĐ số 19/NQ-TW chủ trương tiến hành xây dựng các công trình trên tất cả các bãi đá ngầm với tên gọi "Trạm dịch vụ kinh tế - khoa học kỹ thuật...." ( gọi tắt là công trình DK1). Ngày 05/7/1989 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng( nay là Thủ tướng CP) ra Chỉ thị số 180/CT thực hiện, thành lập Ban Chỉ đạo DK1 do Phó chủ tịch HĐBT Trần Đức Lương làm Trưởng ban, phó ban là Thượng tướng Đào Đình Luyện và các đ/c
đại diện một số Bộ là Uỷ viên ..Đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân là uỷ viên Ban chỉ đạo.
đại diện một số Bộ là Uỷ viên ..Đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân là uỷ viên Ban chỉ đạo.
Quyết định của Chính phủ ngày 16/1/1989 yêu cầu ..." Khẩn trương, bí mật, khoán gọn, vừa thiết kế vừa thi công, vừa là hợp đồng kinh tế, vừa là lệnh của Nhà nước phải hoàn thành hợp đồng với bất cứ giá nào, hoàn thành tốt sẽ được khen thưởng thích đáng.. Xây dựng xong trong Quý 3/1989 là ở Tư chính ( DK1/1), ở Phúc Tần ( DK1/3)và Ba Kè ( DK1/4), quý 3/1990 là DK1...
...Việc hệ trọng cần phải thay đổi cơ chế nên Chủ tịch HĐBT quyết định giao cho Bộ QP chức năng quản lý Nhà nước (bên A) đối với công trình DK1 theo QĐ 363/CT ngày 18/12/1989...Ngày 26/2/1990 theo điện triệu tập Tư lệnh CB Nguyễn Hữu Yên và Đại tá Nguyễn Quý - Cục trưởng cục kỹ thuật vật tư trang bị thuộc BTL Công binh lên Bộ họp... Nhiều ý kiến bàn đi tính lại cuối cùng toàn thể thống nhất tín nhiệm và Thủ trưởng quyết định - Giao BTL Công binh là Chủ đầu tư công trình DK1 và ngày 26/2/1990 Thủ trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết định số 60/QĐ-QP thành lập Ban Xây dựng công trình DK1 và bổ nhiệm: -Đại tá Nguyễn Quý- Cục trưởng Cục KTVTTB-Binh chủng Công binh làm Trưởng ban.
- Phó ban thường trực: Đại tá Vũ Quý Khôi-Phó Viện trưởng Viện KTCB.
- Phó ban: Đại tá Lê Văn Chừng-Trưởng phòng Quân chủng thuộc Cục tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu và Trung tá Phan Năng Giả- Trưởng phòng Công Binh - BTL Hải quân.
Cả 4 chức danh này đều vẫn là ...kiêm nhiệm...Tư lệnh Công Binh quyết định Thiếu tá Nguyễn Thành Định làm Trưởng phòng Kế hoạch-Tài chính , Thiếu tá Nguyễn Quang Ánh làm Trưởng phòng Kỹ thuật .. .
...Đồng thời Chính Phủ quyết định thành lập Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước do Giáo sư Đặng Hữu- Chủ nhiệm Uỷ ban KHKT Nhà nước ( sau là Bộ KHCN) làm Chủ tịch...Bắt đầu từ đây từ thiết kế, dự toán, sản xuất trên bờ, thi công trên biển, nghiệm thu, thanh quyết toán đều phải thông qua Hội đồng 3 cấp : cấp cơ sở (BTL Công Binh) - cấp Bộ Quốc phòng và cấp Nhà nước.....
....Khi thi công trên biển Nhà nước ra quyết định cử Đại tá Nguyễn Quý là Tổng chỉ huy . PGS - Tiến sĩ Phạm Ngọc Nam làm chủ nhiệm đồ án thiết kế. Các nhà máy X49 và Z756 thuộc Bộ tư lệnh Công binh thi công phần thượng tầng, về đóng cọc thép và cẩu lắp phần thượng tầng trên biển hợp đồng với Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt Xô thực hiện.
- Phó ban thường trực: Đại tá Vũ Quý Khôi-Phó Viện trưởng Viện KTCB.
- Phó ban: Đại tá Lê Văn Chừng-Trưởng phòng Quân chủng thuộc Cục tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu và Trung tá Phan Năng Giả- Trưởng phòng Công Binh - BTL Hải quân.
Cả 4 chức danh này đều vẫn là ...kiêm nhiệm...Tư lệnh Công Binh quyết định Thiếu tá Nguyễn Thành Định làm Trưởng phòng Kế hoạch-Tài chính , Thiếu tá Nguyễn Quang Ánh làm Trưởng phòng Kỹ thuật .. .
...Đồng thời Chính Phủ quyết định thành lập Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước do Giáo sư Đặng Hữu- Chủ nhiệm Uỷ ban KHKT Nhà nước ( sau là Bộ KHCN) làm Chủ tịch...Bắt đầu từ đây từ thiết kế, dự toán, sản xuất trên bờ, thi công trên biển, nghiệm thu, thanh quyết toán đều phải thông qua Hội đồng 3 cấp : cấp cơ sở (BTL Công Binh) - cấp Bộ Quốc phòng và cấp Nhà nước.....
....Khi thi công trên biển Nhà nước ra quyết định cử Đại tá Nguyễn Quý là Tổng chỉ huy . PGS - Tiến sĩ Phạm Ngọc Nam làm chủ nhiệm đồ án thiết kế. Các nhà máy X49 và Z756 thuộc Bộ tư lệnh Công binh thi công phần thượng tầng, về đóng cọc thép và cẩu lắp phần thượng tầng trên biển hợp đồng với Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt Xô thực hiện.
Tổng số đã xây dựng 19 công trình trên 6 bãi cạn từ năm 1989 đến năm 1998, mỗi cụm có một nhà trung tâm lớn hơn, ở được tối da 35 người, các nhà khác nhỏ hơn, ở được tối đa 20 người.
Các công trình xây dựng bằng kết cấu thép, đóng cọc trên nền san hô . Do có sự cố bão lớn và yếu tố kỹ thuật, 5 công trình bị nghiêng, đổ, một số cán bộ chiến sĩ Hải quân đã hi sinh.
Các công trình đóng trên nền san hô còn lại bị rung lắc mạnh, đã gia cố bảo đảm độ ổn định, tuy vậy vẫn còn rung lắc . Do các công trình đều bằng kết cấu thép, đến năm 2010 hết tuổi thọ.
Được sự chỉ đạo của Đại tướng Phạm Văn Trà - BT/BQP, Thượng tướng Phan Trung Kiên - Thứ trưởng/ BQP trực tiếp giao nhiệm vụ, năm 2006 đoàn cán bộ gồm:
Thiếu tướng Hoàng Kiền - Tư lệnh Công binh chủ trì
Đại tá - Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Văn Hợi - Chủ nhiệm Khoa công trình quân sự - Học viện kỹ thuật quân sự
Đại tá Nguyễn Bá Hiểu - Trưởng ban quản lý dự án DK1
Vào Vũng Tàu làm việc với Xí nghiệp Việt Xô Petro tìm hiểu, sau đó bay ra dàn khoan dầu khí quan sát nghiên cứu thực tế các công trình dàn khoan dầu khí trên biển. Chúng tôi đã lập phương án đề xuất mô hình nhà dàn DK1 mới với qui mô phù hợp, báo cáo BQP.
Chính phủ chỉ đạo xây dựng các nhà dàn DK1 mới với quy mô lớn hơn, độ bền vững ổn định lâu dài hơn, có cầu nối giữa nhà dàn DK1 mới với nhà dàn DK1 cũ. Nguồn kinh phí do Tập đoàn dầu khí bảo đảm.
Đã hoàn thành xây dựng 14 nhà dàn DK1 mới, tiếp tục khảng định, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam.
Với thành tích đặc biệt xuất sắc trong quản lý, xây dựng các công trình DK1, Ban quản lý dự án DK1/BTL Công binh được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2014.
Với thành tích đặc biệt xuất sắc về nghiên cứu khoa học, nhóm tác giả tham gia thiết kế, thi công đã được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ năm 2012.
II. MƯU ĐỒ ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG QUỐC NGÀY CÀNG TRẮNG TRỢN
1. TRUNG QUỐC THAM LAM VÔ LÝ
Quần đảo Trường Sa là chủ quyền của Việt Nam, đã được xác lập lâu đời. Hiện nay đang có sự tranh chấp của 5 nước 6 bên gồm:
Việt Nam, Trung Quốc, Phi lip pin, Ma lay xia, Brunay và một bên nữa là Đài Loan. Việt Nam chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, sẽ ký thoả thuận COC.
DK1 là thềm lục địa của Việt Nam, không liên quan đến Trường Sa. Trung Quốc nói Trường Sa của Trung Quốc DK1 thuộc Trường Sa nên là chủ quyền của Trung Quốc, Khu vực DK1 nằm trong đường lưỡi bò nên cũng thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Đây là một sự tham lam vô lý và quá đáng.
Năm 2017 Việt Nam đã hợp tác với một công ty dầu khí của Tây Ban Nha tiến hành khoan thăm dò dầu khí tại bãi cạn Tư Chính, Trung Quốc đã ép VN rút dàn khoan, VN không rút, họ đã đe doạ sử dụng vũ lực để phá hoại dàn khoan. Để làm dịu tình hình, VN đã cho rút dàn khoan.
Nay họ đưa tàu thăm dò Hải dương 8 đến khu vực thềm lục địa của Việt Nam trong đó có bãi cạn Tư Chính là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam. Với mưu đồ độc chiếm Biên Đông ngày càng trắng trợn và lấn tới. Một hành động xấu, thiếu xây dựng, làm xấu đi quan hệ giữa hai nước, không thiện chí xây dựng qui chế COC như họ vẫn tuyên bố.
2. TRUNG QUỐC ĐANG HIỆN THỰC HOÁ ĐƯỜNG LƯỠI BÒ ĐỂ ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG
Các bước đi của Trung Quốc trên Biển Đông là liên tục và thống nhất.
Họ đã công bố chủ quyền đường lưỡi bò đứt đoạn gồm 11 đoạn, sau sửa thành 9 đoạn, chiếm 80% diện tích Biển Đông. Lãnh đạo Việt Nam phản đối gay gắt, họ nói đây là bản đồ do Quốc dân Đảng vẽ ra, nếu Đảng cộng sản Trung Quốc xoá đường lưỡi bò này thì nhân dân Trung Quốc không tín nhiệm đảng...
Họ xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng vũ lực.
Năm 1997 quốc hội Trung Quốc ra nghị quyết thành lập tỉnh Hải Nam, sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào Hải Nam, xây dựng thành phố Tam Sa thuộc Hoàng Sa.
Cuối năm 1987 họ cho hải quân xuống chiếm đóng một số đảo chìm của Việt Nam, ngày 14/3/1988 họ đơn phương dùng vũ lực đánh chiếm đảo chìm Gạc Ma của Việt Nam.
Tháng 1/2014 Trung Quốc cho dàn khoan Hải Dương 981 khoan thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, bị phản đối quyết liệt nên họ phải rút. Tuy vậy cũng trong thời gian này, Trung Quốc đã chuẩn bị một kế hoạch rất lớn mang tầm chiến lược bồi đắp 6 đảo chìm đóng trái phép của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa thành 6 đảo nổi, có âu tầu, cầu cảng, sân bay, đưa các thiết bị quân sự ra tổ chức thành căn cứ quân sự quan trọng trên biển đông.
Philippin kiện đường lưỡi bò ra toà án quốc tế về luật biển, đã thắng kiện, nhưng Trung Quốc bác bỏ, đã mua chuộc tổng thống Philippin và vô hiệu hoá phán quyết của toà án quốc tế.
Những năm vừa qua, với sức mạnh về kinh tế và ý đồ đàm phán song phương với từng nước, Trung Quốc đã từng bước chiếm được sự ủng hộ của một số nước Đông Nam Á, đưa Việt Nam vào thế bất lợi có thể ví như "đơn phương độc mã".
Tại hội nghị cấp cao các nước ASEAN họp ở Campuchia năm 2012, Trung Quốc đã "mua đứt" Campuchia. Ông Hồ Cẩm Đào đi thăm Mỹ về, đã ghé thăm Campuchia, cho tiền để xây dựng hội trường cho hội nghị và họ đã 'kiểm soát chương trình hội nghị này", viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi rất lớn. Kết quả vấn đề Biển Đông Việt Nam chuẩn bị rất kỹ đã không được đưa ra hội nghị. Trung Quốc thắng lợi, Việt Nam ngậm ngùi trong cay đắng.
Năm 2017 Việt Nam ký hợp đồng với 1 công ty nước ngoài thăm dò dầu khí tại bãi cạn Tư chính trên khu vực DK1, Trung Quốc buộc ép, đe doạ tiến công bằng hoả lực, buộc Việt Nam phải cho rút dàn khoan.
Gần đây Trung Quốc cho tàu khảo sát Hải Dương 8 khảo sát sâu vào khu vực bãi Tư Chính và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, sát một số đảo ven bờ của Việt Nam với những hành động ráo riết, táo bạo và trắng trợn hơn.
+ Trung Quốc đã có bước đi mới bằng các hành động ngoài thực địa nhằm hiện thực hoá đường lưỡi bò.
+ Yêu sách vô lý của Bắc Kinh
Ngày 28/7, Phản hồi phản đối của VN về việc tàu TQ xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế VN, bà Hoa Xuân Oánh, phát ngôn viên TQ trắng trợn nói rằng, VN vi phạm chủ quyền của TQ tại bãi Tư Chính không những thế bà ta con cao giọng “chúng tôi kêu gọi phía VN xử lý phù hợp vụ việc”
Rõ ràng, bãi tư chính là của VN đã được luật biển quốc tế năm 1982 quy định.....VN không có bất cứ tranh chấp nào đối với các quốc gia khác, bởi đơn giản tại khu vực này là thềm lục địa của VN. Hôm nay, Bắc Kinh đang cố tình xuyên tạc trắng trợn, họ đang biến khu vực không tranh chấp thành khu vực có tranh chấp để cướp Bãi Tư chính của VN. Rõ ràng, qua cuộc họp báo này TQ, hành động “vừa ăn cướp vừa la làng”.
Ngày 28/7, Phản hồi phản đối của VN về việc tàu TQ xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế VN, bà Hoa Xuân Oánh, phát ngôn viên TQ trắng trợn nói rằng, VN vi phạm chủ quyền của TQ tại bãi Tư Chính không những thế bà ta con cao giọng “chúng tôi kêu gọi phía VN xử lý phù hợp vụ việc”
Rõ ràng, bãi tư chính là của VN đã được luật biển quốc tế năm 1982 quy định.....VN không có bất cứ tranh chấp nào đối với các quốc gia khác, bởi đơn giản tại khu vực này là thềm lục địa của VN. Hôm nay, Bắc Kinh đang cố tình xuyên tạc trắng trợn, họ đang biến khu vực không tranh chấp thành khu vực có tranh chấp để cướp Bãi Tư chính của VN. Rõ ràng, qua cuộc họp báo này TQ, hành động “vừa ăn cướp vừa la làng”.
+ Trung Quốc đang xây dựng các căn cứ quân sự tại Hoàng Sa, Trường Sa.
Ngày 15/6/2012, 10 tuần đối đầu giữa Trung Quốc và Philippines khép lại bằng việc Manila rút tàu khỏi vùng biển quanh bãi cạn Scarborough, một đảo san hô vòng gồm nhiều đá ngầm và đá nổi trên Biển Đông, nằm cách đảo chính Luzon của Philippines khoảng 230 km và cách bờ biển đông nam Trung Quốc khoảng 1.000 km. Scarborough lâu nay vẫn là tâm điểm tranh chấp giữa Philippines, Trung Quốc và Đài Loan. Nhất định định Trung Quốc sẽ bồi đắp và xây dựng đảo này thành căn cứ quân sự.
Như vậy Hoàng Sa - Trường Sa - Scarborough sẽ tạo thành tam giác với 3 căn cứ quân sự lớn của Trung Quốc khống chế toàn bộ Biển Đông, khi đủ điều kiện, Trung Quốc sẽ công bố vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông thực hiện bằng sức mạnh độc chiếm Biển Đông, hiện thực hoá đường lưỡi bò.
III. TẠI SAO TRUNG QUỐC QUYẾT TÂM ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG
Về kinh tế
Nguồn lợi dầu khí:
Biển Đông có dầu mỏ nhưng các mỏ đều nhỏ. Tôi đã bay ra các dàn khoan dầu nghiên cứu để đề xuất qui mô xây dựng nhà dàn DK1, qua tìm hiểu được biết các mỏ dầu đều có trữ lượng thấp nên các công trình phục vụ khai thác đều có tuổi thọ chỉ 15 năm, đến lúc đó là hết dầu. Riêng khí đốt có trữ lượng lớn hơn cũng là mục tiêu của Trung Quốc.
Nguồn lợi băng cháy:
Nhân loại đã phát hiện ra dầu mỏ hơn trăm năm nay, người ta dự đoán khoảng 50 đến 70 năm nữa là hết dầu, nguồn năng lượng thay thế đó là băng cháy. Nguồn năng lượng mới khổng lồ có thể cung cấp đủ cho con người sử dụng trong vòng 2.000 năm nữa.
Biển Đông là nơi có nguồn băng cháy vô cùng lớn. Trong mười năm hoạt động trên quần đảo Trường Sa, chúng tôi đã chứng kiến tàu khảo sát đia chất Hải Dương 8 của Trung Quốc cày xới nát Biển Đông, bây giờ nó đã vào sát khu vực DK1 và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, sát các đảo gần bờ theo đường lưỡi bò. Hơn 90 nước có băng cháy, nhưng Biển Đông được cho là có trữ lượng rất lớn.
Băng cháy (còn gọi là đá cháy), có tên khoa học là natural hydrate hoặc gas hydrate, hình thành từ các loại khí thiên nhiên như methane, ethane, propan và nước trong điều kiện áp suất cao (trên 30 atm) và nhiệt độ thấp (dưới 0°C). Băng cháy thường tồn tại ổn định trong điều kiện thềm biển sâu ít nhất từ 300 m trở lên, các đảo ngầm đại dương và ở các vùng băng vĩnh cửu, dưới dạng thể rắn giống như những trái bóng tuyết nhỏ .
Băng cháy là nguồn năng lượng khổng lồ, cứ 1 m3 băng cháy giải phóng khoảng 164 m3 methane (cao gấp 2 - 5 lần khí thiên nhiên, lại sạch, không gây ô nhiễm môi trương).
Băng cháy rất khó khai thác, giá thành hiện nay đắt gấp 8 lần dầu mỏ.
Băng cháy rất khó khai thác, giá thành hiện nay đắt gấp 8 lần dầu mỏ.
Hiện nay, chưa có quốc gia nào khai thác băng cháy ở quy mô công nghiệp. Nga khai thác mỏ băng cháy ở Siberi từ năm 1965 với công nghệ truyền thống như với khí thiên nhiên nên hiệu quả thấp.
Trung Quốc đã khai thác thành công băng cháy trên Biển Đông đang hướng tới dạng thương mại.
Nguồn lợi hải sản:
Biển Đông rất nhiều hải sản, ngư trường đánh bắt cá của ngư dân Trung Quốc. Hiện nay, những đoàn tàu đánh cá rất đông có tàu hải cảnh hộ tống tràn xuống đánh cá trong Biển Đông vào sát các đảo gần bờ của Việt Nam. Tàu của họ lớn, ngư dân chịu sóng gió tốt nên họ đánh bắt quanh năm, lấn át ngư dân Việt Nam và các nước trong khu vực.
2. Về mặt quân sự
Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế, vượt qua Nhật Bản, đứng thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ, họ đang quyết vươn lên vượt Mỹ trong vài ba thập kỷ tới. Từ kinh tế dẫn đến nhu cầu chính trị với vai trò lãnh đạo thế giới. Trung Quốc đang ráo riết cải tổ quân đội, xây dựng lực lượng vũ trang ưu tiên cho Hải quân. Họ đã đóng thành công tàu sân bay, đang tự thiết kế và đóng tiếp hai chiếc nữa. Tàu ngầm là lực lượng rất quan trọng được Trung Quốc tập trung phát triển. Trong đó Hạm đội Nam Hải có đội tàu ngầm diezen đóng ở căn cứ đảo Hải Nam. Trung Quốc muốn chiếm Biển Đông làm nơi trú ngụ cho lực lượng tàu ngầm của Hạm đội Nam hải và từ đây ra đại dương tránh sự trinh sát phát hiện của đối phương chủ yếu là Mỹ.
Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông để đẩy lực lượng hải quân của Mỹ ra xa đất liền của họ, tạo lợi thế về quân sự trong các tình huống khi xảy ra chiến tranh.
IV. ĐỐI SÁCH CỦA VIỆT NAM
1. Khẳng định chủ quyền
Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, luôn luôn luôn khẳng định chủ quyền của mình với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được xác lập từ triều đại phong kiến nhà Nguyễn với các bằng chứng cụ thể, xác thực.
Hiện nay, Việt Nam còn lưu giữ 773 tập Châu bản Triều Nguyễn từ đời vua Gia Long đến vua Bảo Đại, đã được UNESCO công nhận là Di sản khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nước ta sẽ đề nghị nâng cấp lên thành Di sản tư liệu toàn thế giới. Trong bộ Châu bản này luôn luôn khảng định Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, trong đó có tấm bản đồ ghi rõ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Trong khi đó bản đồ Trung Hoa vẽ thời nhà Thanh thì cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa và Trường Sa.
Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Khu vực DK1 là thềm lục địa của Việt Nam, thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế trên Biển Đông theo công ước của Liên hợp quốc năm 1982 về luật biển mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều kí kết.
Năm 1991 Đại tướng Lê Đức Anh - Uỷ viên Bộ chính trị, Bộ trưởng/ Bộ quốc phòng Việt Nam là đặc phái viên của Bộ chính trị Việt Nam sang Trung Quốc đàm phán với Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc. Trước khi vào hội nghị hai người ngồi uống nước, Giang Trạch Dân nói: Tôi mới ở địa phương lên, tôi được biết Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Đại tướng Lê Đức Anh nói: Tôi mới ở chiến trường ra, tôi được nghe nói: Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.
Ông Giang Trạch Dân cười không nói gì, rồi hai người cùng vào phòng họp.
Trong quan hệ hai nước, đã có một số lần gặp nhau giữa Bộ chính trị hai Đảng, phía Trung Quốc đặt vấn đề: Nếu Việt Nam công nhận Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông của Trung Quốc, thì Trung Quốc sẽ viện trợ cho Việt Nam hoàn thành xây dựng đất nước về trước kế hoạch là 5 năm. Việt Nam không đổi chủ quyền biển đảo quốc gia lấy kinh tế.
Trong một lần gặp Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phê phán quan điểm của Trung Quốc về đường lưỡi bò. TBT Đảng cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào nói đường đó là do Quốc dân đảng vẽ ra. Nguyễn Phú Trọng phản kích: Các đồng chí không công nhận Quốc dân đảng tại sao các đồng chí lại công nhận đường lưỡi bò.
Hồ Cẩm Đào nói tiếp: Nếu Đảng cộng sản Trung Quốc bỏ đường lưỡi bò, không công nhận Hoàng Sa, Trường Sa của Trung Quốc thì nhân dân Trung Quốc sẽ không tín nhiệm Đảng, về Việt Nam cũng thế, nếu Các đồng chí công nhận Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông của Trung Quốc thì nhân dân Việt Nam sẽ không tín nhiệm Đảng. Thôi đây là vấn đề do lịch sử để lại, cứ gác lại sau này con cháu ta thông minh hơn nó sẽ giải quyết. Trước mắt là chủ quyền thuộc về Trung Quốc, gác lại tranh chấp cùng khai thác chung....
Rất nhiều vấn đề liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông nữa, nhưng Việt Nam luôn nhất quán chủ quyền của mình với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo luật pháp quốc tế.
2. Đối sách của Việt Nam
- Hoàng Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm, cần đàm phán song phương để giải quyết.
- Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhưng hiện nay đang có sự tranh chấp của 5 nước sáu bên gồm : Việt Nam, Trung Quốc, Phi lip pin, Ma lay xia, Bru nei và một bên nữa là Đài Loan, Việt Nam đang thực hiện chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình thông qua đối thoại trên cơ sở luật pháp quốc tế, theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982. Việt Nam cùng các nước trong khối ASEAN kiên trì đàm phán với Trung Quốc thông qua bộ qui tắc COC về vấn đề Biển Đông để giữ gìn môi trường hoà bình chung trong khu vực.
- DK1 hoàn toàn là khu vực thềm lục địa của Việt Nam, không có tranh chấp, không có đàm phán.
Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay các dàn khoan, tàu thăm dò địa chấy khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
Các lực lượng chức năng của Việt Nam đã triển khai các biện pháp phù
3. Đối sách trên biển
Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình theo công ước quốc tế năm 1982 về luật biển. Kiên trì đấu tranh bằng biện pháp hoà bình.
Các lực lượng chấp pháp trên biển bằng các biện pháp thích hợp, đúng pháp luật ngăn cản các hoạt động của đối phương xâm phạm chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Chúng tôi những cán bộ chiến sĩ Hải quân nhiều năm làm nhiệm vụ trên khu vực quần đảo Trường Sa luôn luôn quán triệt tư tưởng không khiêu khích, không nổ súng trước, không mắc mưu để đối phương lấy cớ gây chiến và đánh chiếm các đảo các khu vực nhà dàn DK1.
Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là Hải quân cùng Không quân vững mạnh về ý chí tinh thần, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại, huấn luyện giỏi, luôn luôn cảnh giác sẵn sàng chiến đấu. Khi bị đối phương gây sự bằng vũ lực thì phải kiên quyết tự vệ đánh trả bảo. Khi đối phương xâm phạm các đảo, các nhà dàn DK1 thì phải kiên quyết chiến đấu và chiến thắng, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Mong rằng mỗi người dân Việt Nam cần hiểu rõ sự việc, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của Quân uỷ Trung ương, sự điều hành xử lý tình hình trên biển của Chính phủ và Bộ Quốc phòng. Chống mọi âm mưu xuyên tạc xấu xa của các thế lực thù địch.
Việt Nam đã có hành động đúng, ngăn chặn âm mưu của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông, đã tạo niềm tin cho các nước Đông Nam Á và các nước trên thế giới cùng hợp tác đấu tranh với Trung Quốc, giữ gìn môi trường hoà bình, đàm phán đa phương thực thi luật pháp quốc tế để giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông.
Nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc rút đi nhưng Trung Quốc không từ bỏ ý đồ bá chủ ở khu vực và ép các nước khác chấp nhận.
Bắc Kinh sẽ tiếp tục thúc đẩy việc đưa các công ty dầu mỏ và lực lượng hải cảnh đến vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven biển Đông nhằm buộc họ chấp nhận vai trò của Trung Quốc và ký kết thoả thuận COC có lơi cho Trung Quốc.
Các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn, cần có lực lượng chấp pháp trên biển mạnh, đủ sức, cần phối hợp hành động chung làm thất bại âm mưu hiện thực hoá đường lưỡi bò của Trung Quốc ngoài thực địa trên Biển Đông.
Mong muốn Trung Quốc và Việt Nam giải quyết những bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình xây dựng. Giữ gìn và phát huy quan hệ hữu nghị giữa hai nước bền vững lâu dài. Việt Nam luôn luôn là nước yêu chuộng Hoà bình, một dân tộc Hoà hiếu.
Ngày 30/7/2019
-------------------------
Bài viết của Thiếu tướng, AHLLVTND Hoàng Kiền
Nguồn: Phja Boóc đại ngàn


